I. KHÁI QUÁT CHUNG
Di
tích lịch sử quốc gia Đền thờ Khúc Thừa Dụ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang,
tỉnh Hải Dương. Di tích được gọi theo tên danh nhân Khúc Thừa Dụ - người xây
dựng nền tự chủ thế kỷ thứ X.
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ và đình Cúc Bồ được xây dựng trên một khuôn viên đất có diện
tích 15.000m, thuộc xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Đền thờ Khúc Thừa Dụ được xây dựng ở phía trước và cách
đình Cúc Bồ khoảng 4m về hướng Tây. Toàn bộ khu vực đền thờ Khúc Thừa Dụ và
đình Cúc Bồ có tường bao quanh, mặt tiền đều quanh hướng Tây nhìn ra sông Luộc,
qua dòng sông Luộc sang bờ bên kia là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; phía Nam và
phía Đông giáp đường làng; phía Tây giáp ruộng canh tác và khu dân cư; phía Bắc
giáp khu dân cư. Tuy trên một khuôn đất, nhưng đều có cổng riêng, vào đền đi
theo hướng Nam, đình theo hướng Đông.
Căn
cứ vào các tài liệu đã công bố: Cúc Bồ xưa thuộc đất Hồng Lộ. Thời Lý - Trần
(thế kỷ XIII - XIV thuộc đất Hồng Châu (1), phủ Hạ Hồng. Vào đầu thế
kỷ XIX, Cúc Bồ thuộc tổng Bồ Dương, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, trấn Hải
Dương (2); nguyên trước là hai thôn Cúc và thôn Bồ (3).
Tổng Bồ Dương gồm 7 xã: An Cúc, Bồ Dương, Cúc Bồ, Động Trạch, Lũng Quý, Quang
Dực và Ngọc Chi.
Sau
cách mạng tháng 8 năm 1945, hai thôn Cúc và thôn Bồ sáp nhập thành một, có tên
chung là Cúc Bồ. Tiếp đến hai thôn Ngọc Chi và An Cúc sáp nhập thành thôn Ngọc
Cúc. Cuối năm 1946, thôn Ngọc Cúc sáp nhập thêm thôn Lũng Quý thành xã Tân Mỹ.
Đầu năm 1947, Tân Mỹ sáp nhập với thôn Cúc Thị thành xã Tử Mỹ. Cũng vào cuối
năm này, nhập thôn Cúc Bồ với xã Tử Mỹ thành xã Kiến Quốc.
Năm
1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 504-NQTVQH phê chuẩn việc hợp
nhất hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành một tỉnh, lấy tên là Hai Hưng. Từ
đây, xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Hưng, Năm 1979, Hội đồng
Chính phủ ra quyết định số 70/CP về việc hợp nhất và điều chỉnh địa giới 13 huyện
của tỉnh thành 7 huyện mới. Trong đó hợp nhất huyện Ninh Giang và huyện Thanh
Miện thành huyện Ninh Thanh, huyện lỵ đặt tại huyện Thanh Miện cũ. Theo đó xã
Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng.
Sau
ngày tái lập tỉnh, huyện (1997), xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải
Dương,
Kiến
Quốc là một xã lớn, nằm ở phía Tây và cách thị trấn Ninh Giang khoảng 7km. Địa
hình xã giống như ống tay áo xuôi theo hướng Bắc - Nam. Về đường bộ, xã có
đường tỉnh lộ 396, đường đê sông Luộc, các đường liên xã, liên thôn được bê
tông hoá. Về đường thuỷ, xã nằm bên bờ sông Luộc, một phụ lưu của sông Hồng.
Sông khá rộng và sâu, xuôi xuống phía Đông ra cảng Hải Phòng, sang đất mỏ Quảng
Ninh, ngược về phía Tây đi thị xã Hưng Yên đến thủ đô Hà Nội rồi theo sông Hồng
tới Lào Cai. Đây cũng là đường thông thương với các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên,
Nam Định... Sông Luộc không chỉ là đường giao lưu kinh tế, buôn bán với các
tỉnh thành mà còn là môi trường thuận lợi cho nghề đánh bắt thuỷ sản, cung cấp
nước ngọt, đất phù sa cho Kiến Quốc cũng như các xã ven sông. Diện tích tự
nhiên của xã: 559,29ha, dân số gồm 7.125 người. 1.833 hộ. (tính đến tháng 12
năm 2010), gồm 5 thôn: Cúc Bồ, Ngọc Chi, An Cúc, Lũng Quý và Cúc Thị. Trong đó,
thôn Cúc Bồ xưa có tên nôm là làng Gọc. Tại đây từng có Gọc bến (bến sông cổ)
và Gọc chợ (nay là thôn Cúc Thị). Đất Cục Bổ khá màu mỡ, có những bãi cói, hoa
cúc và hoa Bồ mọc tự nhiên ven sông - những loài cây thích hợp với thổ nhưỡng
vùng nước lợ. Có thể do một sự biến thiên xã hội nào đó của địa phương, tên
loài hoa đã trở thành tên của vùng đất Cúc Bồ ngày nay (?). Nguồn thu nhập
trong cuộc sống hàng ngày của người dân nơi đây chủ yếu bằng nghề trồng lúa,
trồng mầu, trồng bông trên các chân ruộng cao, bãi bồi ven sông và chăn nuôi
gia súc, gia cầm và có thêm một số nghề phụ như đan lát, đơm đăng chài lưới,
đánh bắt tôm cá, cơ khí, vận tải, dịch vụ...riêng thôn Cúc Bồ có thêm nghe mộc
truyền thống xây cất các đình, chùa nổi tiếng trong và ngoài tinh. Nhờ vậy. mức
sống của nhân dân tương đối cao. Ngạn ngữ xưa trong vùng từng có câu: “Tiền
làng Gọc, thóc làng Chuông.
Căn
cứ vào bản đồ hành chính tỉnh Hải Dương năm 1997, xã Kiến Quốc có vị trí địa lý
như sau:
- Phía Đông giáp xã Hồng
Phong và Ninh Hải (huyện Ninh Giang);
- Phía Tây giáp xã Hồng
Phúc và Tân Phong (huyện Ninh Giang);
-
Phía Nam là sông Luộc, bên kia sông thuộc địa phận xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh
Phụ, tỉnh Thái Bình;
- Phía Bắc giáp xã Đông
Xuyên (huyện Ninh Giang).
b. Đường đi đến di
tích:
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ, nằm cách trung tâm thành phố Hà Nội 85km về phía đông, cách
thành phố Hải Dương 25km về phía Nam.
Du
khách về tham quan di tích có thể đi bằng nhiều đường và các phương tiện khác
nhau như: ô tô, xe máy, xe đạp đều rất thuận lợi.
Từ thành phố Hà Nội du khách đi theo quốc lộ 5 (Hà Nội -
Hải Phòng) về đến địa phận huyện Bình Giang - nơi đầu tiên của tỉnh Hải Dương
trên đường Hà Nội về, gặp biển chỉ dẫn đi Kẻ Sặt, chúng ta tiếp tục đi vào
đường 392 qua thị trấn Kẻ Sặt gặp quốc lộ 20 đi Thanh Miện khoảng 20km đến thị
trấn Thanh Miện rẽ phải hướng đi Hưng Yên, qua cầu Neo rẽ trái đi Đảo Cò,
khoảng 3km đến ngã tư hướng đi Đảo Cò rẽ trái đi đường liên huyện sang Ninh
Giang khoảng 10km là đến di tích.
Từ
trung tâm thành phố Hải Dương (tỉnh lỵ của tỉnh Hải Dương) theo quốc lộ 37 đi
qua huyện Gia Lộc đến huyện Ninh Giang khoảng 28km, đi tiếp đến cầu Me, thuộc
địa phận xã Đồng Tâm rẽ phải, đi khoảng 5km nữa là đến thôn Cúc Bồ - nơi có di
tích.
III. Sự kiện, nhân
vật lịch sử, đặc điểm của di tích:
Thế
kỷ X, hào trưởng Khúc Thừa Dụ gốc Hồng Châu (huyện Ninh Giang ngày nay) đã
chiêu tập nhân dân, dấy binh khởi nghĩa, giành độc lập sau hơn một nghìn năm
Bắc thuộc và tự xưng Tiết độ sứ.
Phong
trào Cần Vương chống Pháp (1883 - 1888), người dân nơi đây đã cùng với nhân dân
các vùng phụ cận thuộc Thanh Miện (Hải Dương), Vũ Thư (Thái Bình)... tham gia
hưởng ứng khởi nghĩa Bãi Sậy của nghĩa quân Tán Thuật.
Trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), do phong trào địa phương phát
triển mạnh nên sau khi chiếm đóng Ninh Giang (tháng 10 năm 1949), thực dân Pháp
đã tổ chức nhiều đợt càn quét khốc liệt nhằm triệt phá cơ sở kháng chiến. Tháng
01 năm 1950, quân Pháp ép dân làng phá dỡ đình, chùa, đền, miếu để xây dựng đồn
bốt, nhân dân Cúc Bồ đã khéo léo vừa phá dỡ vừa bí mật chuyển cất dấu một phần
kiến trúc và đồ thờ tự đến xóm Trung cùng thôn để bảo quản. Sau chiến thắng
Điện Biên Phủ (1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chính quyền và nhân dân
địa phương đóng góp tiền của, công sức để tiếp tục khôi phục một phần di tích
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng. Năm 1989, chính quyền và nhân dân
địa phương tiếp tục trùng tu đình Cúc Bồ theo kiểu chữ Đinh (J) trên cơ sở kế
thừa kiến trúc miếu Cúc Bồ.
Tháng
7 năm 1999, trong khi nạo vét dọn hồ sen trước cửa đình Cúc Bồ nhân dân địa
phương đã tìm thấy một số viên gạch, ngói có chữ Hán cùng một số cột lim dưới
lòng hồ.
Tháng
9 năm 1999, Bảo tàng Hải Dương đã tiến hành đào thám sát, khai quật lòng hồ sen
trước đình Cúc Bồ, với diện tích 80m chạy dài theo hướng Đông -Tây ở độ sâu
60cm so với mặt ruộng canh tác. Kết quả thu được 325 mảnh gốm, 2.154 mảnh ngói,
101 mảnh gạch và 5 mảnh đá, ngoài ra, còn tìm thấy 18 đoạn gỗ có đường kính
trung bình 20cm. Trong số 2.154 mảnh ngói thì có 5 mảnh có chữ Hán. Theo đánh
giá và kết luận của các nhà khoa học thì năm viên ngói hình ống có chữ Hán được
viết theo lối hành thư có chữ “Khúc Miếu”. Những hiện vật có niên đại từ cuối
thế kỷ X, cho phép kết luận nơi đây đã từng tồn tại những công trình kiến trúc
thuộc về dòng họ Khúc, trong đó có “Khúc Miếu” tức đền thờ họ Khúc hoặc đền thờ
Khúc Thừa Dụ vào cuối thế kỷ X.
Ngày
15 tháng 7 năm 2003, Sở Văn hoá Thông tin (nay là Sở Văn hoá, Thể thao và Du
lịch) giao cho Bảo tàng Hải Dương tổ chức toạ đàm “Khúc Thừa Dụ và quê hương
Cúc Bồ”. Đến dự và tham gia ý kiến có đại diện các nhà khoa học, quản lý, nhà
nghiên cứu Trung ương và địa phương như: Cục Di sản văn hóa, Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam, Viện Hán nôm, Tạp chí Xưa và nay, Hội Mỹ
thuật Việt Nam và các cơ quan, ban, ngành từ tỉnh đến huyện; Đại diện dòng họ
Khúc Việt Nam....
Hội
nghị đã xác định nơi đây là quê hương họ Khúc và họ Khúc có nhiều công lao đóng
góp cho công cuộc giải phóng dân tộc, xây nền tự chủ. Vì vậy, Đảng và Nhà nước
cần có sự quan tâm đúng mức để tôn vinh cho xứng đáng với những đóng góp của
Khúc Thừa Dụ và họ Khúc tại Cúc Bồ; việc làm đó được cụ thể bằng việc quy
hoạch, xây đền thờ và tiến hành lập hồ sơ xếp hạng di tích để có cơ sở trong
việc bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống tại địa phương.
Năm 2004, UBND tỉnh Hải Dương xây dựng đền thờ
Khúc Thừa Dụ. Năm 2009, khánh thành đền thờ Khúc Thừa Dụ và đưa vào khai thác
sử dụng.
Nhân
vật lịch sử:
Các
nhân vật được thờ tại di tích là những người thuộc dòng họ Khúc (là nhân thần),
có công chống lại ách đô hộ nhà Đường, khai mở nền tự chủ của Việt Nam vào thế
kỷ X sau gần nghìn năm Bắc thuộc.
- Khúc Thừa Dụ - còn gọi
là Khúc Tiên Chúa.
- Khúc Hạo - con trai
Khúc Thừa Dụ - còn gọi là Khúc Trung chúa.
- Khúc Thừa Mỹ - con
trai Khúc Hạo - còn gọi là Khúc Hậu chúa.
Theo
các nhà nghiên cứu lịch sử, thế kỷ thứ X đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch
sử. Ở phương Tây (Châu Âu), người ta gọi là năm một nghìn, thời kỳ phục hồi các
thành thị, sau một “Đêm dài Trung Cổ”. Cũng là thời kỳ của các cuộc thập tự
chinh - chiến tranh tôn giáo trong khốc liệt, cuồng tín nhưng lại tạo nền cho
sự giao thương trở lại giữa Tây - Đông.
Ở
Trung Hoa, sau sự sụp đổ của đế chế Đường (907) là một thời kỳ hỗn loạn “Ngũ
đại thập quốc” (907 - 960), kết thúc bằng sự thống nhất dưới thời Tống, với
trỗi dậy của ý thức dân tộc nguồn cội của người Hoa Hạ và sự ra đời của một ý
thức hệ mới - Tống Nho mà các nhà Trung Hoa học phương Tây gọi là Tân Nho giáo,
thay thế dần đạo giáo chính thống đời Đường.
Trong
bối cảnh chung và khu vực Đông Á ấy, sau gần một ngàn năm chống Bắc thuộc, từ
Trưng Vương (40 - 43) đến Lý Nam Đế (544 - 546) rồi Mai Hắc Đế (722), Bố Cái
đại vương Phùng Hưng (767 - 791), cả thế lực nội sinh cùng với thời cơ ngoại
sinh (thời - thế - cơ) đã đẩy nước Việt đứng lên dựng quyền tự chủ ở đầu thế kỷ
X.
Người
có công đầu trong cuộc tự chủ đó là họ Khúc ở Hồng Châu. Sự kiện này có thể tóm
tắt như sau:
Vào
đầu thế kỷ X, ở Trung Quốc, triều đình nhà Đường bước vào thời kỳ mạt vận. Tên
Độc Cô Tổn là Tiết độ sứ tại nước ta lúc bấy giờ có ý làm phản, cát cứ chống
lại triều đình trung ương, nên bị cách chức và bắt đi đày ở đảo Hải Nam rồi bị
giết chết.
Nhân
cơ hội đó, ở đất Hồng Châu, có người hào trưởng Khúc Thừa Dụ nổi tiếng khoan
hoà, nhân nghĩa và có thế lực trong vùng, đã chớp thời cơ dấy binh khởi nghĩa.
Được các đầu mục trong nước giúp sức, ủng hộ, Khúc Thừa Dụ mang đại quân đánh
chiếm phủ Tống Bình - Đại La (tức Hà Nội ngày nay), xưng là Tiết độ sứ, mở nền
độc lập cho dân tộc sau gần nghìn năm Bắc thuộc.
Để có
thời gian xây dựng chính quyền non trẻ, Khúc Thừa Dụ cho một phái bộ sang thần
phục nhà Đường, nhưng thực chất là dùng nhu chế cương. Niên hiệu Thiên Hựu năm
thứ ba (906), nhà Đường buộc phải công nhận và thăng Tĩnh Hải Tiết độ sứ Khúc
Thừa Dụ chức Đồng Bình chương sự. Rõ ràng chức Tiết độ sứ là do Khúc Thừa Dụ
giành lấy và nhà Đường phải công nhận, còn phong thêm chức khác. Theo ý kiến
của Giáo sư Trần Quốc Vượng thì đây là một hành động khôn ngoan, “cướp chính
quyền một cách hòa bình để xây dựng chính quyền tự chủ trong hoàn cảnh lịch sử
ngày xưa”. Tuy mang danh một chức quan nhà Đường, thực chất Khúc Thừa Dụ đã trở
thành người làm chủ một trung tâm hành chính của đất nước, một sự kiện hàng
nghìn năm trước đó chưa từng có. Ông được lịch sử đánh giá là ở người mở nền
độc lập cho đất nước, còn nhân dân tôn vinh ông là Khúc Tiên Chúa.
Ngày
23 tháng 7 năm Đinh Mão (907), Khúc Thừa Dụ qua đời. Người con trai là Khúc Hạo
thay cha, giữ chức Tiết độ sứ, tiếp tục sự nghiệp chăm lo xây dựng đất nước với
nhiều chính sách cải cách quan trọng.
Khúc
Hạo thay cha cai quản đất nước đúng vào thời kỳ nhà hậu Lương vừa thay thế nhà
Đường (907), ông đã khôn khéo cho một phái bộ sang nhà Lương thần phục để giữ
hoà bình với phương Bắc để tập trung vào việc nội trị, với mục tiêu cải thiện
đời sống nhân dân và xây dựng một chế độ hành chính trung ương tập quyền - một
hình thức mới nhất lúc bấy giờ.
Về
cải cách hành chính, Khúc Hạo chia nước ta thành các cấp: lộ, phủ, châu, giáp,
xã. Mỗi xã đặt một chánh lệnh trưởng. Một số xã gần nhau, trước là hương, đổi
là giáp. Mỗi giáp có một quản giáp và phó quản giáp trông coi mọi việc ở cấp
mình.
Về
kinh tế - xã hội, Khúc Hạo cho sửa lại chế độ điền tô, thuế và lực dịch nặng nề
mà nhà Đường đã đặt ra để bóc lột vơ vét dân ta.
Về
quốc phòng, ông chú ý bố phong, gìn giữ biên giới, lấy tình cảm để thu phục các
hào trưởng miền biên ải và xây dựng lực lượng bảo vệ đô thành, phòng thủ đất
nước.
Về
chính trị, ông lấy khoan dung, giản dị, yên ổn và vui sống làm mục tiêu cai trị
đất nước. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tiền biên - quyển 5, 15a, đã
tóm gọn những cải cách của Khúc Hạo trong mấy chữ cô đọng như sau: "Bình
quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp
trưởng (quản giáp trông coi). Chính trị cốt chuộng khoan dung giản dị. Nhân dân
đều được yên vui".
Quả
thực, với một nước có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, người dân coi cái ăn
là cốt tử thì được hưởng sự khoan dung, giản dị, yên ổn là hạnh phúc. Kế sách
ấy đi vào lòng dân, được dân tri ân muôn đời. Mãi bốn trăm năm sau, nhà Trần
vẫn phát triển thành chiến lược “Khoan thư sức dân để làm kế sâu bền rễ, đó là
thượng sách giữ nước”.
Rõ
ràng, công cuộc cải cách, cai quản đất nước, giữ nền tự chủ của họ Khúc đã mở
ra một giai đoạn phát triển mới cho toàn xã hội mà các triều đại sau đó tiếp
tục hoàn thiện. Chính vì thế, thời Khúc Hạo cai quản đất nước là một thời kỳ
yên bình: việc chính trị khoan dung giản dị, dân yên vui chăm chỉ cấy cày.
Sau
này, các sử gia coi Khúc Hạo là nhà cải cách đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Giáo sư Trần Quốc Vượng có một so sánh rất độc đáo: “Đi ngược dòng lịch sử ta
thấy thế này: Thế kỷ thứ XX có Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh rồi sau này thập kỷ
80 là Nguyễn Văn Linh, Hồ Nghinh, Trường Chinh...Thế kỷ XIX có Nguyễn Trường
Tộ, Nguyễn Lộ Trạch...thất bại não nề và mất nước. Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV
có Hồ Quý Ly, thất bại và mất nước. Đầu thế kỷ X có nhà cải cách Khúc Hạo, con
dõi, nối quyền của Khúc Thừa Dụ. Vậy, theo dòng lịch sử, Khúc Hạo là nhà cải
cách đầu tiên của thời quân chủ Việt Nam”.
Đầu
năm 917, Lưu Cung lên ngôi hoàng đế Nam Hán, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ
và Ngô Mẫn mang lễ vật sang mừng để kết tình bang giao. Lưu Mân nhận lễ vật và
quốc thư. Nhưng cuối năm ấy, Khúc Hạo qua đời, Khúc Thừa Mỹ lên nối ngôi, giữ
binh quyền cai quản đất nước. Biết Lưu Cung có tham vọng lớn, lại tráo trở, nên
Khúc Thừa Mỹ đã có ý đề phòng. Ông phái tướng lĩnh tâm phúc lên vùng thượng du
liên kết với các tù trưởng, các dân tộc tiểu số Tày Nùng, tổ chức thành những
đội quân giỏi đánh trong rừng núi. Ông cho thành lập các đội thám báo, giỏi võ
nghệ, hoặc giả làm người lái buôn hay người đi du thuyết, thâm nhập Nam Hán dò
tin tức quân mã.
Năm
Canh Dần (930), nhà Nam Hán đem quân tiến đánh nước ta bằng đường thuỷ và đường
bộ. Thế giặc mạnh, Khúc Thừa Mỹ không chống cự được, đã bị bắt và sự nghiệp họ
Khúc đến đây kết thúc, đất nước lại tiếp tục rơi vào tình trạng bị phương Bắc
đô hộ lần thứ 2.
Ba
đời họ Khúc liên tục kế nghiệp lãnh đạo nước ta, tuy thời gian nắm chính quyền
chưa được 30 năm nhưng đã in dấu son trong lịch sử dân tộc. Đó là thời kỳ mở
nền độc lập, tự chủ, với những cải cách lớn có giá trị bền vững trong quá trình
dựng nước và giữ nước.
Sách,
Lịch sử Việt Nam - thế kỷ X đầu thế kỷ XV, NXB Khoa học Xã hội, xuất bản năm
2002, có ghi: "Khúc Thừa Dụ, người Hồng Châu, ở làng Cúc Bồ - nay thuộc
huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương".
Tại
nhà thờ họ Khúc, xã Từ Lâm (Vĩnh Bảo - Hải Phòng), còn đôi câu đối ghi chép về
đất tổ Cúc Bồ:
Cúc địa tự hưng trường
sự nghiệp
Hồng thiên khởi chủ
quảng dư đồ
Dịch nghĩa:
Đất Cúc Bồ nổi lên mà
kéo dài sự nghiệp
Trời Hồng Châu dấy lên
nền tự chủ (cho đất nước) để mở rộng giang sơn.
Chi
họ Khúc ở Thụy Sơn, Thụy Phú (Thái Thụy - Thái Bình) còn cho biết: Các cụ xưa
đi lánh nạn, xuôi theo sông Hoa đến tận bờ biển Thụy Anh và cư trú tại đó. Vì
nhớ quê hương cũ, cho nên các cụ đặt tên cho làng là “làng Gọc”,
Riêng tại Cúc Bồ còn lưu
giữ được nhiều tài liệu liên quan tới họ Khúc. Đặc biệt có đôi câu đối,
Cúc
Bồ di tổ nghiệp
Hồng hạt dĩ
tiên lai
Dịch nghĩa:
(Đất
Cúc Bồ lưu giữ sự nghiệp tổ tiên, hạt Hồng Châu mở hướng tương lai con cháu).
Và một bài
cổ thi nổi tiếng vẫn được lưu truyền trong nhân dân:
"Tam tiên cơ tự chủ
Vạn cổ Khúc linh từ
Cúc Bồ lưu hiển tích
Hồng hạt thử thiên thư"
Dịch
nghĩa:
"Ba
vị Chúa gây dựng nền tự chủ,
Đền thờ họ
Khúc sẽ còn đến muôn thủa,
Tại làng Cúc Bồ còn giữ được dấu
tích,
Đất Hồng Châu đã được ghi
lại ở sách trời"
Sinh hoạt văn hoá tín
ngưỡng liên quan đến di tích:
Trước
Cách mạng tháng 8 năm 1945, Cúc Bồ có một quần thể di tích gồm: đình (thờ Thành
hoàng Dương Quý Hiển và phối thờ Khúc Thừa Dụ); miếu (thờ Khúc Hạo), đền (thờ
Khúc Thị Ngọc (Quỳnh Hoa công chúa) - con gái Khúc Thừa Dụ) và chùa (thờ phật).
Trong bốn di tích này, hàng năm lễ hội đình Cúc Bồ được tổ chức lớn nhất, vào
hai kỳ: lễ đình đám tháng giêng (âm lịch) và lễ kỷ niệm ngày mất của Khúc Thừa
Dụ vào 23 tháng 7 (âm lịch). Kỳ lễ hội tháng giêng diễn ra trong 3 ngày (từ
ngày 14 đến 16), ngay từ ngày 14, dân làng đã nô nức ra đình từ rất sớm làm các
công việc chuẩn bị cho hội: bao sái đồ thờ, chồng kiệu, dọn dẹp đường
“nghinh thỉnh” phong quang, sạch sẽ từ đình Cúc Bồ đến miếu thờ Khúc Hạo để tổ
chức rước. Ngày 15 là trọng hội. Theo lệ, cứ ba năm một lần, các giáp Đông,
Đoài Dương và Bắc lại thay nhau làm chủ tế. Lễ vật gồm có lợn, gà đã làm thịt
và xôi, oản, quả các loại. Trong lễ tế, tiết mục đặc biệt nhất là đọc chúc văn,
thường khi đến phần tên “Huý” của các vị thánh thì chiêng trống nổi lên rầm rộ
để không cho người ngoài biết. Sau nghi thức tế lễ, theo sự hướng dẫn của các
Hương lão, đoàn rước phân công đi theo trình tự: kỳ lân, sư tử đi trước, hương
án, kiệu bát cống, kiệu long đình có tàn che. Kế đến là các vị chức sắc, quan
viên, và cuối cùng là dân làng. Đoàn rước tiến bước theo nhịp trống, chiêng
vang dội, lộ trình từ đình đến miếu thờ Khúc Hạo tổ chức lễ bái qua đêm, sáng
ngày hôm sau mới rước về đình, tổ chức lễ tạ, kết thúc lễ hội. Cũng vào ngày
16, tại miếu thờ Khúc Hạo có tổ chức các trò chơi dân gian như: đấu võ, đấu
vật, cờ tướng, chọi gà...thu hút cả những đô vật từ Hải Phòng, võ sĩ từ Thanh
Hoá, Nghệ An về dự tạo nên một không khí náo nhiệt từ đình đến miếu. Kỳ lễ hội
tháng 7 diễn ra trong một ngày là ngày 23 kỷ niệm ngày mất của người anh hùng
Khúc Thừa Dụ. Nghi thức tế lễ do đội tế nam trong thôn Cúc Bồ đảm nhiệm, lễ vật
do ba giáp Đông, Đoài Dương và Bắc chịu trách nhiệm sắm sửa gồm: lợn, xôi, hoa
quả, trầu rượu...
Tháng
01 năm 1950, thực dân Pháp ép dân làng phá dỡ đình, chùa, đền, miếu để xây dựng
đồn bốt, nhân dân Cúc Bồ đã khéo léo vừa phá dỡ vừa bí mật chuyển cất dấu một
phần kiến trúc và đồ thờ tự. Năm 1989, trùng tu đình Cúc Bồ trên cơ sở kế thừa
kiến trúc miếu Cúc Bồ. Và, cũng trong năm này, lễ hội đình Các Bồ mới được phục
dựng trở lại.
Năm
2004, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hải Dương đã xây dựng đền thờ Khúc
Thừa Dụ. Năm 2009, tổ chức khánh thành và đưa công trình vào khai thác sử dụng,
nhân dân lấy ngày mất của Khúc Thừa Dụ (ngày 23 tháng 7 âm lịch), để tổ chức Lễ
hội. Lễ hội do UBND huyện Ninh Giang chủ trì giao cho UBND xã Kiến Quốc đứng ra
tổ chức long trọng với mục đích tri ân, nhớ ơn người xưa đã xây dựng nền độc
lập tự chủ cho đất nước. Qua đó nhằm tuyên truyền, quảng bá sâu rộng về sự
nghiệp của họ Khúc và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm đến với thế
hệ trẻ hôm nay và mai sau; truyền thống đó sẽ tiếp tục được lan tỏa không chỉ
với nhân dân trong xã, huyện, tỉnh mà còn với cả du khách thập phương vùng phụ
cận và cả nước. Thời gian lễ hội diễn ra bắt đầu từ tối ngày 22 với nghi thức
tế cáo yết, xin phép mở lễ hội do đoàn tế nam của thôn Cúc Bồ đảm nhiệm, sau đó
là các tiết mục văn nghệ của nhân dân địa phương và nhà hát chèo Hải Dương biểu
diễn. Sáng ngày 23, trước lễ tế và diễn văn khai mạc ôn lại công lao của
các vị anh hùng họ Khúc là màn trống khai hội tạo nên không khí hào hùng, uy
linh, hoành tráng. Buổi chiều tổ chức các trò chơi dân gian: chọi gà, cờ tướng,
kéo co...Lễ hội đã thu hút đông đảo người tham dự từ trung ương, tỉnh, huyện,
xã đến con cháu dòng họ Khúc gần, xa cùng nô nức trở về quê hương trong tình
cảm chan hoà hướng về cội nguồn.
Có
thể nói, lễ hội đình Cúc Bồ xưa và đền thờ Khúc Thừa Dụ nay thực sự là một
trong những lễ hội truyền thống tiêu biểu của xã Kiến Quốc nói riêng và của
huyện Ninh Giang nói chung mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Có sự gắn kết giữa lễ
hội đình vào dịp mùa xuân và lễ hội đền vào mùa hạ. Sự gắn kết giữa đình và đền
không chỉ gắn kết về mặt địa lý mà còn gắn kết về giá trị nhân văn trong việc
tổ chức lễ hội. Thông qua lễ hội, mọi người cùng nhau nhắc nhớ lại công lao
đánh đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng nền độc lập tự chủ của các vị anh hùng họ
Khúc, đồng thời nêu cao truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn, hướng tới mục
đích giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc đối với các thế
hệ ngày hôm nay, đặc biệt là thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước.
III. Kiến trúc di tích
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ được xây dựng trên khuôn viên đất cao, rộng và thoáng. Công
trình được tôn tạo với bố cục và quy mô lớn, có diện tích 15.000m, ở phía trước
và cách đình Cúc Bồ khoảng 4m về hướng Tây (nơi trước đây Khúc Thừa Dụ được
phối thờ, di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia vào năm 1998) tạo thành quần
thể kiến trúc hài hòa giữa đền nước - đình làng để tôn vinh tương xứng với vị
thế và công lao của dòng họ Khúc trong lịch sử dân tộc.
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ tọa lạc trên một khu đất rộng, thoáng, mặt tiền quay hướng
Nam, nhìn ra sông Luộc là nơi lưu thuỷ, di tích có kiến trúc chữ Công (I), gồm
các hạng mục công trình:
- Nghi môn ngoại, chất liệu đá;
- Cầu đá;
- Giếng mắt rồng, chất liệu đá;
- Nhà bia, chất liệu bê tông cốt thép,
lợp ngói mũi.
- Nghi môn nội và các mảng phù điêu bằng
đá;
Hai
dãy giải vũ, mỗi dãy năm gian, kiểu chữ Nhất (-), chất liệu gỗ, mái lợp ngói
mũi;
- Đền thờ Khúc Thừa Dụ, kiểu chữ Công
(I), chất liệu gỗ, mái lợp ngói mũi.
- Nhà Ban quản lý, chất liệu bê tông
cốt thép, mái đổ bê tông dán ngói mũi.
- Công trình phụ.
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ được xây dựng và tôn tạo chia làm năm giai đoạn. Giai đoạn 1,
giải phóng mặt bằng, xây tường rào, nghi môn nội, bãi đỗ xe và móng đền chính. Giai
đoạn 2, hoàn thiện đền chính, làm tượng danh nhân, thi công nhà tả vu, hữu vu
và giếng mắt rồng. Giai đoạn 3, thi công nhà bia, phù điêu đá và nhà Ban quản
lý. Giai đoạn 4, thi công nghi môn ngoại (tứ trụ), cầu đá, sân vườn. Giai đoạn
5, thi công tượng linh thú, kè hồ và các hạng mục còn lại. Tổng số tiền trong
năm giai đoạn đầu tư gần 38 tỷ đồng, từ nguồn vốn của tỉnh, trung ương và các
nguồn vốn huy động khác. Thời gian thực hiện và hoàn thành cho năm giai đoạn
thi công từ 2004 - 2008.
Hiện
nay, đền thờ Khúc Thừa Dụ có khuôn viên rộng, tường bao khép kín, cảnh quan
đẹp, kiến trúc hoành tráng, đồng bộ, mặt tiền quay hướng Nam, nhìn ra sông Luộc
là nơi lưu thuỷ, còn chính điện cùng các hạng mục khác được bố cục đăng đối
trên trục thần đạo theo hướng Bắc Nam là hướng của đế vương.
Từ
ngoài vào là nghi môn được làm kiểu tứ trụ (nghi môn ngoại), chất liệu bằng đá
xanh, nằm ngay bên cạnh con đường cái quan của làng, trang trí hoa văn và con
giống truyền thống. Phía sau nghi môn qua chiếc cầu đá bước tới khoảng sân dành
cho các hoạt động vui chơi, còn gọi là sân hội. Trên sân hội, hồ sen được đặt
vào vị trí trung tâm và giao thông được phân tuyến. Hai bên là giếng mắt rồng,
hai nhà bia dạng phương đình tám mái và mười tượng linh thú cùng vẻ đẹp của hai
bức phù điêu ghép bằng các mảng đá lớn với các hoạ tiết được chạm khắc công
phu, mô tả quang cảnh nhân dân tụ nghĩa theo tiên chúa Khúc Thừa Dụ giành chính
quyền tự chủ và cuộc sống thái bình, an cư lạc nghiệp, tổng hoà thành một không
gian kiến trúc mang tính nghệ thuật giới thiệu lịch sử thế kỷ X và giáo dục
truyền thống yêu nước.
Tiếp
đến là nghi môn nội ngăn cách giữa không gian tổ chức hội với không gian của
các sự lệ, nghi lễ (sân lễ). Sân khá rộng, hai bên có nhà tả vu, hữu vu. Qua
sân lễ là đền chính có kiến trúc kiểu chữ Công (I) gồm 5 gian tiền tế, 3 gian
trung từ và 5 gian hậu cung. Toàn bộ ngôi đền được dựng trên nền bệ cao chín
bậc có lan can và thềm bó đá xung quanh.
Năm
gian tiền tế bề thế, được xây dựng theo kiến trúc cổ truyền, các đầu đao ở các góc,
bộ mái rộng chảy ra bốn phía nhưng không nặng nề mà ngược lại trông rất
nhẹ nhàng, hài hòa, toát nên vẻ đẹp về mỹ thuật và kết cấu của công trình. Với
lối cấu trúc bốn mái khiến cho quan sát từ hướng nào cũng như chính diện, mỗi
mặt như một lưỡi rìu chém xuống, chắc chắn, dứt khoát mà không cứng nhắc gò
theo hình học cơ bản. Trên cạnh bờ nóc và bờ giải, được gắn những đường gân
và dải hoa chanh tạo sự mềm mại. Hai đầu bờ nóc tiền tế đắp lạc long, đầu đao
các góc mái đắp rồng chầu phượng mớm. Hệ thống cửa chất liệu gỗ lim, được làm
kiểu thượng song hạ bản, các mảng chạm khắc trên các bộ cửa theo đề tài tứ quí.
Kết
cấu bộ khung vì chịu lực liên kết các cấu kiện và các bộ vì chia gian của di
tích được làm chất liệu gỗ lim gồm 6 vì kèo, trong đó có 4 vì kèo chính và 2 vì
kèo hạ khoảng tại gian dĩ. Các vì kèo này có kiến trúc giống nhau kiểu chồng
rường. Các con rường được đặt trên các đấu vuông thót đáy, chạm lá lật và hoa
sen. Kích thước cột cái và cột quân lớn được đặt trên chân đá tảng vuông thót
đáy. Hoành, rui được bào nhẵn, lắp ghép cân đối, hài hoà. Bảy hiên chạm liên
hoàn hai mặt tích long hý thủy, long hý ngư. Các bức chạm trên xà nách, đầu
dư...đều mô phỏng theo phong cách nghệ thuật truyền thống thời hậu Lê khá đẹp.
Ba
gian trung từ được nối với gian trung tâm toà tiền tế bởi hệ thống kẻ xối, gồm
4 bộ vì kèo được kiến tạo giống toà tiền tế. Hai bên tường hồi toà trung từ
không xây gạch mà thay vào đó là hệ thống cửa bức bàn ghép kín, chính giữa là
một bộ cửa kiểu thượng song hạ bản tạo thành lối ra, vào thông với lan can và
hệ thống bậc cấp xuống sân vườn.
Năm
gian hậu cung dàn ngang giống toà tiền tế và nối với gian trung từ ở chính giữa
tạo cho di tích có bình đồ kiến trúc kiểu chữ Công (I). Ngăn cách giữa toà
trung từ và hậu cung là một bức chạm thủng hổ phù và long quần rất sinh động ở
chính giữa, hai bên là hai bộ cửa thượng song hạ bản. Khác với toà tiền tế và
toà trung từ, phần mái toà hậu cung được kiến tạo chồng diêm cổ các, hai tầng
tám mái nên trong lòng toà nhà này khá cao tạo ra độ sâu thẳm cho không gian
thiêng - nơi đặt ba pho tượng thờ tiên chúa Khúc Thừa Dụ, trung chúa Khúc Hạo
và hậu chúa Khúc Thừa Mỹ.
Phía
sau đền là khu đất cao được tạo ra trông như quả núi (với ý nghĩa gối sơn đạp
thủy) và một số loại cây ăn quả lâu năm truyền thống của địa phương như vải,
nhãn...Ngoài ra, còn trồng thêm các cây cổ thụ như đa, bồ đề...khoảng vườn này
sẽ là một điểm dừng chân lý tưởng cho du khách thập phương khi đến thăm khu di
tích, đồng thời làm điểm tựa, chỗ dựa vững chắc về mặt bố cục và không gian
đệm, ngăn cách với khu dân cư tạo cho khu di tích một không gian linh thiêng.
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ là một công trình văn hoá được xây dựng để tưởng niệm, tôn
vinh người có công xây dựng nền độc lập của dân tộc vào thế kỷ X của dòng họ
Khúc tại quê hương Cúc Bồ. Nơi đây đã tìm thấy những viên gạch có khắc chữ Khúc
Miếu - để minh chứng cho việc thờ tự đã có từ rất sớm.
Di
tích được xây dựng tại vị trí trung tâm của xã, cạnh đình Cúc Bồ, các công
trình trong tổng thể không gian di tích được làm chất liệu gỗ tứ thiết và hệ
thống phù điêu bằng đá xanh tạo thành quần thể hài hòa, không đơn điệu và tuân
thủ theo lối kiến trúc truyền thống, từ đó tăng thêm sự uy nghi, bề thế và vẻ uy
linh ho di tích.
Lễ
hội truyền thống hàng năm có sự gắn kết giữa đình và đền, nhằm tăng thêm tính
bền vững, tinh thần đoàn kết của cộng đồng nhân dân nơi đây, nhằm khơi dậy lòng
tự hào, tinh thần tự tôn dân tộc, giáo dục truyền thống yêu nước; tiếp tục bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hoá phi vật thể tại địa phương cho các thế kê
tiếp; coi đây là thiết chế văn hóa, điểm du lịch tâm linh của tỉnh Hải Dương để
khai thác và phát huy một cách hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội
tại địa phương./.