DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA QUỐC GIA ĐỀN TRANH
XÃ ĐỒNG TÂM - NINH GIANG - HẢI DƯƠNG
1. Khái quát chung
Di tích lịch sử - văn hóa Quốc gia đền Tranh là di
tích thuộc thôn Tranh Xuyên, xã Đồng
Tâm, huyện Ninh Giang,
tỉnh Hải Dương. Vào thời Trần, hai
làng Tranh Xuyên
và Tranh Chử hợp
thành làng Tranh Chung. Trong
cuộc chiến chống quân Nguyên, nhà Trần đào
một con sông gọi là sông Do Tranh để
tiện việc tải binh. Sông ấy
đi qua làng Tranh Chung
chia làng ấy làm đôi: Tranh
Xuyên thuộc phủ
Ninh Giang và Tranh chử thuộc
huyện Vĩnh Bảo. Cuối thời Nguyễn Tranh
xuyên là một xã thuộc tổng Bất Bế,
huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh
Giang, tỉnh Hải Dương.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Tranh Xuyên
chuyển thành thôn, sáp nhập với các thôn Vĩnh Xuyên, Ngọc Hoà, Bất Bế (gồm 3
Xóm Giâm, Me, Vé) và xóm Đoàn Kết thành một xã, lấy
tên là xã Đồng Tâm. Đến cải cách ruộng đất (1956), xã Đồng Tâm chia thành 3 đơn
vị hành chính: Thị trấn Ninh Giang và xóm Đoàn Kết thuộc thị trấn Ninh Giang;
hai thôn Vĩnh Xuyên và Ngọc Hoà sáp nhập lấy tên là xã Vĩnh Hoà; thôn Tranh
Xuyên và thôn Bất Bế, sáp nhập lấy tên là xã Đồng Tâm. Sau đó, địa danh của xã lại có sự
thay đổi: hai xóm Giâm, Me sáp nhập lại lấy tên là thôn Giâm Me, xóm Vé nay là thôn Vé, thôn Tranh Xuyên vẫn giữ nguyên
và cái tên Bất Bế không còn. Hiện nay, xã Đồng Tâm có 3 thôn: Tranh Xuyên, Giâm Me và Vé. Tên di tích Đền Tranh gắn liền với tên thôn Tranh Xuyên từ
trong lịch sử.
Đền Tranh toạ lạc trên một mảnh đất cao ráo, thoáng rộng, độc lập với
dân cư làng Tranh Xuyên. Mặt tiền quay về hướng Nam, nhìn về thị trấn Ninh
Giang, phía Bắc và phía Nam giáp đường, phía Tây giáp khu chùa mới xây dựng.
Khu di tích là tập hợp các công trình khá đồ sộ và là khu di tích có hướng phát
triển tốt.
Xã Đồng Tâm nằm về phía Tây Bắc thị trấn Ninh Giang. Toàn xã có diện
tích tự nhiên là 459,47ha, dân số 5.992 người (tính đến tháng 2 năm 2009). Phía
Đông giáp Hà Kỳ (huyện Tứ Kỳ); Phía Tây giáp xã Hiệp Lực, Hồng Dụ (huyện Ninh
Giang); Phía Nam giáp thị trấn Ninh Giang ( huyện Ninh Giang); Phía Bắc giáp xã
Vĩnh Hoà và Tân Hương (huyện Ninh Giang).
Đồng Tâm là miền đất trù phú, được hình thành khá sớm trong lịch sử. Mảnh
đất này được bồi đắp bởi phù sa sông Luộc, đất đai màu mỡ, người dân thuần hậu,
chất phác, lấy nghề cấy lúa, trồng màu làm nghề chính của mình. Ngoài ra, địa
phương còn có nghề làm bánh gai nổi tiếng, đã từng tồn tại hàng trăm năm, đến
nay vẫn phát triển mạnh, mang lại nguồn thu nhập khá lớn cho nhân dân.
Do có đường giao thông thuận lợi, xã có Quốc lộ 37, theo hướng Bắc từ Đồng
Tâm, qua thị trấn Gia Lộc đến thành phố Hải Dương, có thể theo Quốc lộ 5 đi Hà
Nội, Hải Phòng; theo hướng Nam, từ Đồng Tâm có thể ra Quốc lộ 10, đi các tỉnh
Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, gặp Quốc lộ 1, đi các tỉnh phía Nam một cách
thuận tiện. Từ lợi thế đó, Đồng Tâm có hướng phát triển kinh tế khá đa dạng như
nghề kinh doanh dịch vụ phát triển mạnh, một số hộ đầu tư cho sản xuất nông
nghiệp, sản phẩm trở thành hàng hoá, không chỉ cung cấp cho nhân dân trong
vùng, mà còn cung cấp cho các tỉnh bạn.
Đồng Tâm là một xã có nhiều di tích lịch sử văn hoá. Trước cách mạng
tháng 8 năm 1945, các thôn làng đều có các cơ sở thờ tự khá sầm uất. Ở thôn
Tranh Xuyên, trước đây có một ngôi đình thờ Thành Hoàng làng, một ngôi đền thờ
quan lớn Tuần Tranh và có tới 3 ngôi chùa là chùa Cả, chùa Am và chùa Mới, làng
có một ngôi miếu thờ Khổng Minh Không. Ở thôn Giám Me, có một ngôi đình thờ
Thành Hoàng làng, trùng tu vào năm 1897, trong 2 năm 2006, 2007, đình được
trùng tu lớn và đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương ra quyết định xếp hạng.
Chùa Giâm Me xây dựng vào năm 1927 và tu sửa vào năm 1941, hiện nay, trong chùa
còn khá nhiều pho tượng Phật có giá trị về nghệ thuật. Thôn Vé có một ngôi chùa
thờ Phật, tại đây còn lưu giữ một số pho tượng có giá trị.
Trải qua chiến tranh và thiên nhiên tàn phá, nhiều di tích đã bị huỷ hoại,
tuy nhiên bằng sự nỗ lực của nhân dân, và sự ủng hộ của chính quyền, nhiều di
tích đã được khôi phục, tu bổ và tôn tạo, đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của
nhân dân địa phương.
2. Sự kiện và nhân vật được
thờ:
Căn cứ vào tài liệu như: "Thần
linh đất Việt" của Vũ Thanh Sơn. Trung tâm UNESCO phổ biến kiến thức
văn hoá giáo dục cộng đồng, NXB Văn hoá dân tộc năm 2002, trang 949; "Nếp cũ hội hè đình đám” của Toan Ánh -
NXB TPHCM năm 1992, trang 233; "Địa
dự các tỉnh Bắc kỳ" của Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vị Liễn, Phạm Văn Thư xuất
bản năm 1925, trang 34: "Bản lý lịch
di tích Đền Kỳ Cùng" (Lạng Sơn) trang 1, 2, 5,
"Thuyết Trần - Sử nhà Trần" của Trần Xuân Sinh, NXB Hải Phòng, trang
268, xuất bản năm 2003; "Vài viết về
lịch sử đền Tranh"; "Hồi ký
về quê hương Tranh Xuyên"; các tài liệu tại di tích, truyền ngôn trong
nhân dân và các tài liệu có liên quan, thì nhân vật được thờ tại đền Tranh có phần
không thống nhất. Tuy nhiên, theo chúng tôi, nhân vật được thờ tại đền Tranh là
một Thủy thần có tên là quan đệ ngũ Tranh
giang Đại vương Hoàng Hợp tôn thần (Hoàng tử thứ 5 của vua Thuỷ). Để đi tới
quan điểm này, chúng tôi xin điểm qua một số tư liệu:
1 - Tư liệu trong bản lý lịch di
tích đền Kỳ Cùng (Lạng Sơn - Di tích đã được xếp hạng quốc gia năm 1993).
- "Đền Kỳ Cùng lúc đầu thờ thần Giao long (Thần nước), qua quá trình biến
đổi của tự nhiên cũng như xã hội, dưới tác động của các sự kiện lịch sử. Đền đã
thay việc thờ thần Giao long bằng thờ Quan lớn Tuần Tranh, một vị tướng của nhà
Trần” (trang 1, 2). Như vậy, theo tài liệu này thì Quan lớn Tuần Tranh là một
người có thật được thờ sau: thần Giao long (Thần nước) - được biết, sách Đại
Nam nhất thống chí cho biết "Đền Kỳ Cùng ở xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng,
nơi tả ngạn sông Kỳ Cùng có thần Giao long”.
2 - Tư liệu trong sách "Thuyết
Trần - Sử nhà Trần" của Trần Xuân Sinh, NXB Hải Phòng, xuất bản năm 2003,
có đoạn viết "Theo gia phả họ Nguyễn
Đức ở Gia Lộc - Hải Dương, thì đền Tranh thuộc phủ Ninh Giang, thờ quan lớn
Tuần Tranh, tức Hưng Võ Vương Quốc Nghiễn, con trai trưởng của Hưng Đạo Vương
(?). Trong đền có pho tượng bằng đá với bài vi viết chữ triện Thanh giang Đại
vương Hoàng hợp tôn thần”. Ngày xưa Hưng Võ Vương Trần phòng mọn lọc đầu giang
và vùng sông Tranh (Ninh Giang) nên gọi là quan lớn Tuần. (Sau bọn đồng cốt đã
làm sự lệch lạc đi, nói đến này thời hoàng tử thứ 5 của Long Vương, phạm lỗi bị
đây, để câu khách mê tín thập phương)?
3 - Một số tư liệu nói Quan lớn Tuần
Tranh có tên là Cao Lỗ Vương, là người chế tạo nỏ thần và rất giỏi thuỷ chiến
giúp vua Hùng chống giặc.
Theo chúng tôi những tư liệu trên
chưa đủ cơ sở khoa học để khẳng định, cần phải tiếp tục nghiên cứu, xin nêu ra
đây với mục đích chỉ để tham khảo,
4 - Nguồn tư liệu đáng tin cậy nhất,
theo chúng tôi được căn cứ bởi cuốn: "Địa dư chí các tỉnh Bắc Kỳ của Đỗ
Đình Nghiêm, Ngô Vị Liễn, Phạm Văn Thư, xuất bản năm 1925, Thần linh đất
Việt" của Vũ Thanh Sơn NXB Văn hoá dân tộc Hà Nội 2002, phần viết về
"Quan lớn Tuần Tranh, trang 949”, ”Nếp cũ hội hè đình đám” (quyển thượng
của Toan Ánh - NXB TPHCM - 1992 trang 233 phần viết về "Hội đền 14. CL72
lớ77 Tuần Tranh". Thần tích đền Lạc Dục xã Hưng tạo, huyện Tứ Kỳ đã được
Nguyễn Bính soạn vào năm 1572 Nguyễn Tiến sao lại vào năm 1737 và các tài liệu
tại di tích đền Tranh. Trong các tư liệu trên, có khác nhau về một số chi tiết
nhỏ, nhưng đều cho rằng: Nhân vật Quan lớn Tuần Tranh chính là vị Thuỷ thần,
con thứ 5 của vua Thuỷ, theo tín ngưỡng dân gian vùng sông nước. Xin được tóm
tắt như sau:
Theo truyền thuyết, ngày xưa ở xã
Lạc Dục, huyện Tứ Kỳ, có hai vợ chồng nhà nghèo, đã già mà chưa có con. Một
hôm, người chồng cuốc vườn bắt được ở cạnh một bụi cây hai cái trứng, ngỡ là trứng
chim nên đem đi cất cẩn thận. Ngờ đâu, hai cái trứng nở ra hai con rắn. Vợ lấy
làm sợ muốn đem giết đi, nhưng chồng không nghe, nói rằng có lẽ trời cho ta
khuây khoả cảnh già đây. Quả nhiên, hai con rắn ấy quấn quýt với hai vợ chồng
ông già. Một hôm ông cuốc đất, một con rắn nhảy vào đùa nghịch, bị ông cuốc cụt
đuôi, về sau khi linh ứng, dân làng khiếp sợ lập miếu thờ gọi là miếu ông Cộc,
ông Dài nhưng phải cái nó chỉ ăn gà thôi. Ông già đi ăn cắp gà cho chúng ăn nhiều
rồi, sau sợ hàng xóm biết phải tội nên đành phải mang vứt xuống Sông Tranh. Chỗ
vứt hai con rắn ấy về sau nước xoáy dữ lắm. Một hôm có bà Công chúa muốn qua
sông, nhưng nước xoáy dữ, thuyền không qua được. Sau theo lời quan, dân sở tại
đòi hai vợ chồng ông già đến hỏi chuyện. Bà lão sợ hãi bèn lấy hai nắm cơm vứt
xuống sông và nói rằng: "Con ơi, con có thương mẹ thì đừng nổi sóng nữa để
mẹ khỏi tội". Nói vừa xong thì sóng yên lặng.
Về sau có ông quan Phủ tên là Trịnh
Thường Quân được bổ về Ninh Giang. Ông lấy một người vợ lẽ đẹp lắm. Một hôm bà
đi chơi thuyền trên sông Tranh, gặp một người dưới nước lên đòi lấy bà làm vợ.
Bà nhất định không nghe, đến đêm về, đang ngủ, bỗng lại thấy người đó hiện vào
phòng, nhất định đòi lấy. Bà đem chuyện này nói với quan Phủ. Quan Phủ cũng lấy
làm lạ, nên phòng giữ cẩn thận. Một hôm, ngài có việc quan đi vắng, đến lúc về
thì thấy buồng không.
Quan Phủ lấy làm phiền lắm, bèn từ
chức, ngày ngày ra bờ Sông Tranh tìm vợ. Sau gặp một ông tiên tên là Quỷ Cốc ở
miền Hải Quốc mách rằng bà Phủ đã bị Hoàng tử thứ 5 của vua Thuỷ bắt xuống làm
vợ rồi. Tiên Quỷ Cốc nghĩ thương tình quan Phủ nên giúp sức cho xuống được điện
vua Thuỷ mà kêu, Tiên cũng kêu hộ. Sau vua Thuỷ cho cả hai vợ chồng về và bắt
Hoàng tử thứ 5 đem đầy ra Sông Tranh. Từ đó, dân sự hai bên bờ thấy nhiều điều
kỳ dị, nên lập đền thờ, gọi là đền Tranh, dân quanh bến, hoặc thuyền bè xuôi
ngược qua đây, nếu gặp sóng gió đều khấn cầu, sóng gió sẽ êm. Ai có cầu khẩn
điều gì cũng được linh ứng. Thỉnh thoảng những đêm trăng sáng, có người trông thấy
một thanh niên mũ áo từ trong đền đi ra. Người ta liền kháo nhau đó là quan lớn
Tuần Tranh!
Về sau, do có nhiều công giúp dân
buôn thuyền, bán bè, qua sống bình an, may mắn, vị thần được tôn là: Quan đệ
ngũ Tranh Giang Hoàng Hợp tôn thần. Đền Tranh có tiếng linh thiêng, cầu việc gì
được việc ấy, nên khách đến lễ khá đông.
Thông qua truyền thuyết trên, theo
chúng tôi việc thờ quan lớn Tuần Tranh là hình thức tín ngưỡng dân gian, trước
hết của những người làm nghề trên sông nước, sau đó lan ra những người buôn bán
mong cho mọi việc được thông luồng bén giọt, làm ăn mọi điều may mắn.
Về mặt duy vật
biện chứng có thể nói, trước đây ở những đoạn Sông có ngã ba, ngã tư... các
dòng chảy thường tạo ra những dòng nước xoáy, thuyền bè đi lại khó khăn. Có
những khúc sông nhiều thuyền bè bị lật, họ cho rằng có vị Thuỷ thần nổi giận,
do đó khi đền thờ được lập nên, mọi người đều mang lễ vật đến cầu Thuỷ Thần.
May mắn đã mang lại cho họ, do vậy các ngôi đền thờ Thuỷ Thần đều rất thiêng.
Hiện nay, còn tồn tại một số ngôi đền thờ Quan lớn Tuần Tranh như ở Kỳ Cùng
(Lạng Sơn), đền làng Đào Đông, huyện Quỳnh Phụ (Thái Bình), chùa Trông (Hưng
Long - Ninh Giang) đều là những ngôi đền nằm cạnh bờ sông có vùng nước xoáy. Tuy nhiên,
tín ngưỡng thờ Thuỷ thần vẫn in đậm trong tiềm thức của nhân dân.
Đền Tranh không chỉ là nơi thờ Quan lớn Tuần
Tranh theo tín ngưỡng dân gian, vào thời kỳ tiền khởi nghĩa, đền còn là nơi hoạt
động bí mật của đồng chí Lê Thanh Nghị, xứ uỷ Bắc Kỳ về xây dựng chi bộ Đảng tại
nhà máy nước Ninh Giang (năm 1937 - 1938), thành lập hội truyền bá quốc ngữ.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, chính quyền và nhân dân địa phương đã tổ chức mít tinh
chào mừng cách mạng tháng 8 và 2/9 tại di tích.
Năm 1946, thực hiện chủ trương "tiêu thổ
kháng chiến" của Đảng và chính phủ, du kích địa phương kết hợp với bộ đội
chủ lực đào hầm bí mật trong khu di tích để sẵn sàng đánh địch. Hoà bình lập lại,
đền là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương và khách thập phương,
3. Phong tục lễ hội:
Hàng năm, tại đền Tranh có hai kỳ lễ hội chính
vào tháng 2 và tháng 8, ngoài ra còn có ngày tiệc Quan 25 tháng 5 âm lịch.
Xin nêu tóm tắt các hoạt động của lễ hội này:
* Lễ
hội tháng 2:
Lễ hội tháng 2 được diễn ra từ ngày 10 đến 20
tháng 2, trong đó ngày 14 tháng 2 là ngày chính hội, đồng thời là ngày kỷ niệm
ngày sinh của Đức Thánh Tuần Tranh.
Trước năm 1946, lễ hội đền Tranh là lễ hội lớn
nhất trong vùng được tổ chức với thời gian khá dài. Mở đầu cho lễ hội tháng 2
là nghi lễ "ban ấn", do
Tri phủ huyện Ninh Giang ban cho các Hương lý, Kỳ hào, rất trang nghiêm. Từ
sáng ngày 10 tháng 2, nhân dân tập trung ở đình làng Tranh Xuyên (đình thờ hai
vị Thành hoàng là Quý Minh đại Vương và Thiên Hưng đại vương là hai vị nhân thần có công khai khẩn và bảo vệ làng xóm), sau
đó rước kiệu cùng các dụng cụ rước Thần xuống đền. Sau đó tế lễ tại đền đến
sáng ngày 14 tháng 2. Sáng ngày 14, các kiệu Thành Hoàng, kiệu quan lớn Tuần
Tranh nhập thành một đoàn rước lớn rước đến các đền khác trong thị xã như đền
quan đệ Tam, đền Mẫu, đền bờ sông, đền phủ Bà. Khi qua các đền, các đền đều có
điệu nhập vào đoàn rước. Đây là một đoàn rước khổng lồ thu hút đông đảo nhân dân thị trấn
Ninh Giang, nhân dân trong vùng và khách thập phương. Đi đầu đoàn rước này là
các bộ bát biểu, binh khí, đến phường bát âm, kiệu hoa, rồi đến hàng loạt kiệu
các vị Thần của các đền và đoàn người
đưa rước với trang phục muôn sắc màu của một lễ hội lớn. Đoàn rước trở về đền
Tranh, tế lễ suốt buổi chiều. Đến chiều, kiệu của di tích nào lại được rước về
an vị tại di tích đó. Các ngày 15, 16, 17, 18, 19 ngày nào cũng có tế lễ, hầu đồng
và các hoạt động lễ hội. Đặc biệt, tại di tích còn có lễ rước nước và lễ tạ
Thánh ở ngã ba Sông, nơi mà Quan Tuần Tranh cai quản. Ở đây có nghi lễ rước nước
sông Tranh làm nước cúng trong đền suốt
cả năm; Đây là nghi lễ rất linh thiêng và trang trọng của nhân dân đối với vị
thuỷ Thần trấn giữ Sông Tranh.
Ngày 20 có tổ chức tế tạ, đóng cửa đền, kết
thúc lễ hội. Trong các ngày lễ hội, ngoài phần lễ, phần hội đã diễn ra nhiều
trò chơi dân gian như đánh vật, bắt vịt, đi cầu thùm, chọi gà, đánh cờ người, bịt
mắt bắt dê và nhiều trò chơi dân gian khác. Buổi tối có hát chèo, hát tuồng,
múa rối, hát ả đào...
Lễ hội tháng 2 là lễ hội lớn nhất trong năm,
thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và khách thập phương tham gia. Năm 2022, lễ hội truyền thống
đền Tranh được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.
* Lễ
hội tháng 8:
Lễ hội này bắt nguồn từ việc kỷ niệm ngày mất
của Trần Hưng Đạo. Đồng thời, theo sử cũ còn ghi lại: dòng sông Tranh còn ghi dấu
ấn của ông trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên ở thế kỷ XIII. Để ghi nhớ
công lao của người anh hùng dân tộc, nhân dân đã đúc tượng thờ ông và tổ chức lễ
hội.
Lễ hội được tổ chức từ ngày 20 đến 25 tháng 8
(âm lịch) trong đó ngày 22 tháng 8 là ngày trọng hội. Trong lễ hội chỉ chú trọng
đến phần tế lễ, không tổ chức rước. Lễ hội tháng 8 vẫn thu hút đông đảo quần
chúng tham gia. Trong những ngày lễ hội, ít tổ chức các trò chơi dân gian.
* Ngày tiệc quan 25 tháng 5:
Theo truyền thuyết đây là ngày quan lớn khao tiệc, khách làm ăn đến đây
khá đông, chủ yếu là lễ và hầu đồng.
Sau bao năm gián đoạn vì hai cuộc chiến tranh tàn khốc, năm 1996, đến
Tranh được khôi phục và sau đó, lễ hội lại được mở trở lại. Đặc biệt, lễ hội
tháng 2 năm 2005, ngoài các nghi thức truyền thống, tại di tích có tổ chức
"rước nước" và lễ "thả hoa" tại ngã ba sông để dâng lên
Quan Lớn Tuần Tranh. Trong những năm gần đây, Uỷ ban nhân dân xã Đồng Tâm, Ban
Quản lý di tích và nhân dân địa phương đã khôi phục lễ hội truyền thống vốn có
của di tích. Tuy nhiên, thời gian và quy mô không lớn như xưa, nhưng lễ hội đã
đáp ứng được sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân và khách thập phương.
3. Lịch sử di tích
Đến Tranh được khởi dựng từ bao giờ? ai là người khởi công xây dựng? cho
đến nay chưa có tài liệu nào xác định. Theo truyền ngôn trong nhân dân thì: Đền
Tranh lúc đầu là một ngôi miếu nhỏ, sát ngã ba sông. Do sông Tranh đổi dòng nên
phải chuyển vào phía trong. Căn cứ vào hệ thống bia ký tại đền cho biết: vào
năm Tự Đức thứ 5 (1852) đền đã có nhiều người công đức để tụ tạo. Khi thực dân
Pháp chiếm tỉnh Hải Dương, chúng cho quân xây bốt sát đền và là nơi hoạt động
quân sự. Để nơi thờ cúng được uy nghiêm, nhân dân chuyển đến về dựng tại phía
Bắc đền cũ (hiện nay là doanh trại Lữ đoàn 513 - quân khu III đóng quân). Năm
1935, đền được xây dựng lại thành một ngôi đến lớn trên khuôn viên rộng 4 mẫu
Bắc bộ. Khu di tích có 4 toà nhà lớn gồm: Cung cấm, cung đệ nhất, cung đệ nhị,
cung đệ tam và hai dãy dải vũ. Từ năm 1941 đến 1945, đền Tranh được tôn tạo khá
rộng lớn. Kiến trúc các
công trình theo kiểu trùng thiềm điệp ốc, có 5 nếp nhà nối liền nhau. Nghi môn có 5 cửa (ngũ
quan) được xây dựng theo kiểu "chồng diêm cổ các" các góc đao có nhiều
phù điêu hồng chầu phượng khá đẹp,
nghi môn được xây dựng theo mô tuýp kiến trúc kinh thành Huế. Sân đền rộng 5 sào Bắc bộ, khu di tích có kiến trúc đẹp và
có quy mô lớn nhất trong vùng.
Năm 1946, thực hiện chủ trương "tiêu thổ
kháng chiến” của Đảng và Chính phủ, các nếp nhà lần lượt được tháo dỡ, chỉ để lại
cung cấm để làm nơi thờ tự. Hoà bình lập lại (1954), đền Tranh lại được khôi phục
để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Đến năm 1960, do nhu cầu mở rộng
doanh trại của quân đội, nên nhân dân cùng Lữ đoàn 513 chuyển 3 gian hậu cung về
dựng tại địa điểm mới, cách đền
cũ 300m về phía bắc (vị trí hiện nay).
Sau 50 năm, vào ngày 1 tháng 10 năm 1996, Uỷ
ban nhân dân xã, Ban kiến thiết đã làm lễ khởi công xây dựng 7 gian tiền tế của
đền. Ngày 3 tháng 6 năm 1999 khởi công xây dựng nhà trung từ. Năm 2003 và năm
2004 hoàn thành xây dựng nghi môn và toà hậu cung, năm 2006 tôn tạo đông vu và đài hoá sớ. Toàn bộ khu di tích được bao bọc bằng hệ thống tường
bao khá đẹp.
Đền Tranh có quy mô hoành tráng với 34 gian lớn
nhỏ, bao gồm 7 gian Tiền tế, 7 gian trung từ, 7 gian nhà nối, 3 gian cổ dải, 3
gian hậu cung, 7 gian đông vu và nhiều công trình phụ trợ khác.
* Toà tiền tế gồm 7 gian dài, 20,3 m, rộng
9,84m. Đây là một toà nhà khá lớn, kết cấu chính là 8 vì kèo bê tông cốt thép
chắc chắn hệ thống cột cái, cột quân, xà lách, toàn bộ bằng bê tông được tạo dựng khá đẹp mắt. Các con thuận,
đấu sen, hoành, rui bằng gỗ tứ thiết, chất lượng tốt. Móng, tường xây bằng gạch
chỉ, mái lợp ngói mũi, bờ nóc, bờ cánh mềm mại có nhiều đường gờ chỉ đẹp, trên
nóc có phù điêu lưỡng long chầu nguyệt khá sinh động.
* Toà Trung từ gồm 7 gian dài 18,4 m, rộng 3,8
m, đây là toà nhà được kết cấu toàn bộ phần khung sườn bê tông cốt thép, trụ, đấu,
hoành, rui, bẩy hiện bằng gỗ tứ thiết. Vì kèo được kiến tạo theo kiểu
"vành mai" (theo kết cấu của các công trình đền Đồng Bằng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình).
Mái lợp ngói mũi, công trình nối liền toà tiền tế.
* Công trình tiếp sau toà
trung từ là 7 gian nhà nối, có chiều dài 18,4m, rộng 5,2m, toàn bộ công trình
là gỗ tứ thiết, các vì kèo kiến tạo theo kiểu "kẻ chuyền chồng chóp"
khá đẹp. Chất liệu gỗ tứ thiết còn tốt. Móng, tường xây bằng gạch chỉ, mái lợp
ngói mũi, bờ nóc, bờ cánh có nhiều phù điêu đạt trình độ nghệ thuật cao.
* Tiếp sau 7 gian nhà nối là 3
gian cổ dải, dài 7,79 m, rộng 3m. Toà nhà này gồm 4 vì kèo, kiến trúc kiểu"
chồng giường, giá chiêng"truyền thống. Chất liệu gỗ tự thiết khá chắc chắn.
Đặc biệt, toàn bộ các vì kèo của toà nhà được sơn son thếp bạc ở tất cả các chi
tiết, tạo không gian tráng lệ của ngôi đền.
* Ngăn cách giữa 3 gian cổ dải
là hệ thống cửa 3 gian hậu cung, đồng thời là 3 gian "cung cấm" của
ngôi đền dài 7,79m, rộng 7,79 m. Hậu cung đền có kiến trúc kiểu "chồng
diêm cổ các ", gồm 4 cột tứ tru, tạo ra 2 vì kèo chính và là công trình
cao hơn hẳn các công trình phía trước. Hai vì kèo 2 bên thấp hơn, cũng được các
nghệ nhân dân gian kiến tạo hài hoà với 2 vì kèo chính. Chất liệu chính của hậu
cung là gỗ tứ thiết được sơn son thếp vàng sáng chói. Móng, tường xây bằng gạch
chỉ, mái lợp ngói vảy các, các mái đao cong, hệ thống bờ nóc, bờ cánh được tạo
dựng chắc chắn và mềm mại. Hậu cung là nơi linh thiêng nhất của di tích. Trước
cách mạng tháng 8 năm 1945, "cung cấm" chỉ mở cửa một năm ba lần để bao
sái tượng Quan Lớn Tuấn Tranh, đó là vào lễ hội tháng 2, tháng 8 và ngày 30 tết.
* Ngoài các công trình chính,
trong khu di tích còn có một số công trình phụ trợ được tôn tạo trong những năm
gần đây như toà đông vu, tôn tạo năm 2006 gồm 7 gian đào tầu đéo góc, chất liệu
bằng gỗ lim, lợp ngói mũi khá đẹp; Nghi môn được xây dựng theo kiểu "chồng
diêm cổ các, gồm 2 cửa phụ một cửa chính, quy mô lớn như nghi môn xưa; nhà bia,
đài hoá sớ và nhiều công trình phụ trợ khác. Toàn bộ khu nội tụ được bao bọc bằng
hệ thống tường bao chắc chắn và đẹp mắt.
Cùng với các công trình kiến
trúc, trong nội tự còn có nhiều cây xanh, tạo cảnh quan hài hoà trong toàn khu
di tích. Khu di tích đã có quy hoạch tổng thể phát triển trong tương lai./.