LÝ LỊCH DI TÍCH
MIẾU TÂY ĐÀ PHỐ-
XÃ HỒNG PHÚC
HUYỆN NINH GIANG
- TỈNH HẢI DƯƠNG
I - TÊN GỌI DI TÍCH:
- Tên thường gọi: Miếu tây Đà Phố
-Tên nôm: Miếu Làng Già
Tên tự: Không có
Miếu Tây Đà Phố là di tích lịch sử - văn
hóa thuộc thôn Đà Phố, xã Hồng phúc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Di tích
nằm tại phía tây thôn Đà Phố , nên nhân dân lấy tên thô, đặt cho miếu theo địa
danh của địa phương.
II - ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ DI TÍCH- ĐƯỜNG ĐI
ĐẾN:
1- Địa điểm
phân bố di tích:
Miếu Tây Đà Phố nằm trên gò đất giữa
cánh đồng của thôn Đà Phố, mặt tiền quay về phía tây, nhìn ra ao miếu, phía bắc
và phía nam giáp cánh đồng thôn, phía đông giáp đường. Di tích tọa lạc trên một
khu đất cao ráo, là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
*
Lịch sử làng xã:
Từ khi lập làng đến nay, Đà Phố đã nhiều
lần thay đổi tên gọi. Vào thế kỷVI, mảnh đất Đà Phố là làng Bản Lễ, thuộc Vũ Xá
xã, thời Lê sơ là làng Đà Bồ( thời gian sau đổi thành Đà Phố), huyện Vĩnh Lại,
phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương. Sang thời Nguyễn thế kỷ 19 xã Đà Bồ thuộc tổng Bồ
Dương, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Đầu thế kỷ 20 Làng Đà Bồ
đổi tên thành Làng Đà Phố, tổng Đà Phố, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Sau
cách mạng tháng tám thành công, tháng 3 năm 1946, làng Đà Phố chuyển thành
thôn, thuộc xã Hồng Phúc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Hiện nay, xã Hồng Phúc có 3 thôn: Đà Phố,
An Lãng, Phụ Dực.
Diện tích tự nhiên của xã la 517,8 ha diện
tích nông nghiệp là 360ha, diện tích thôn Đà Phố là 196,69ha
Dân số xã 4920 người, 1360 hộ, riêng thôn Đà
Phố có 2610 người ,703 hộ, (Tính đến tháng 12 năm 2004).
* Về vị trí địa lý xã Hồng phúc:
-Phía Đông giáp xã Kiến Quốc,
- Phía Tây giáp xã hưng Long và xã Hưng
Thái
- Phía Nam giáp sông Luộc
- Phía Bắc giáp xã Tân Phong
Hồng Phúc là một miềm quê thanh bình của
huyện Ninh Giang. Người dân nơi đây lấy nghề nông làm nghề chính, bản chất thuần hậu, thật thà, chất phác, cần cù và đất
đai màu mỡ đã giúp cho việc cấy lúa, chăn nuôi gia súc, và làm thêm nghề phụ
đem lại cuộc sống khá ổn định. Những năm gần đây , Hồng Phúc đã có bước tiến
trong nông nghiệp , phát triển ngành nghề, thay đổi cơ cấu, nên sản phẩm nông
nghiệp đã trở thành hàng hóa, đời sống nhân dân địa phương từng bước được cải
thiện.
Đã từ rất lâu đời, Hồng phúc có 3 thôn
thì mỗi thôn đểu có nghề truyền thống. Đà Phố dệt và khổ hẹp bằng khung cửi
tay, thu hút hầu hết sức lao động của phụ nữ, cụ già và trẻ em. Những năm sợi
khan hiếm, nhiều gia đình đã chủ động trồng bông khéo sợi, tạo lấy nguyên liệu
cho nghề dệt. Ngoài vải, Đà Phố còn dệt cả màn, vải và màn đẹp nổi tiếng trong
vùng Ninh Giang và Quỳnh Côi. Thôn Phụ Dực có nghề phụ quan trọng là nghề xây,
hầu hết nam giới trong làng đều biết làm thợ, một số người có tay nghề gioirn
nên kinh tế khá giả. Thôn An Lãng do có địa hình cao, ruộng ven làng màu mỡ rất
phù hợp với cây rau cận, nên rau cần của An Lãng rất được nhiều nơi ưa chuộng
mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân. Hồng phúc là một vùng đất được
hình thành khá sớm trong lịch sử, mối thôn, làng đều có đình, chùa, miếu như:
đình chùa Phụ Dực; đình chùa An Lãn; đặc bieeth thôn Đà Phố có nhiều di tích nhất,
bao gồm 1 đình 02 chùa, 01 văn chỉ, 2 miếu Đông và miếu Tây. Tuy nhiên trải qua
những biến cố lịch sử và thiên nhiên tàn phá, hầu hết các di tích bị hủy hoại,
hoạc đã trở thành phế tích. Những di tích đã bị tàn phá trong chiến tranh ở các
thôn đang dần được khôi phục lại, nét đẹp văn hóa truyền thống đã được khôi phục.
2-
Đường đi đến
Từ thành phố Hải Dương( Tỉnh lị của tỉnh
Hải Dương ) theo tỉnh lộ 17A khoảng 28 km đến câu Me rẽ phải theo đường 210 đến
ngã ba Đà Phố, tiếp tục ré trái theo đường liên xã khoảng 1km sau đó rẽ phải
380m thì đến di tích.
Đến
di tích có thể bằng ô tô, xe máy, xã đạp rất thuận lợi dễ dàng.
III-
SỰ KIỆN VÀ NHÂN VẬT ĐƯỢC THỜ:
Căn cứ vào thần tích, bia ký, sắc phong
, câu đối , đại tự tại di tích, tài liệu lưu trữ tại Viện thông tin Khoa học xã
hội và lưu truyền trong nhân dân thì : Miếu Tây
Đà Phố tôn thờ hai vị tướng thời Triệu
Quang Phục là Trương Uy, Trương Diệu. Thân thế và sự nghiệp của các ngài có thể
tóm tắt như sau:
Hai anh em là bậc bề tôi có công lao lớn
thời Triệu Việt Vương. Vị thứ nhất là “ Uy Linh Đại vương” vị thứ hai la “ Diệu
Linh Đâị vương”
Nước Việt xưa, trời Nam mở mang vận nước,
sao Dực- Chẩn cắt ngang chia cương lĩnh núi sông ró rệt. Từ trều Hùng vương mở
mang vận nước, thánh tổ ứng hợp với cơ đồ 18 đời truyền nhau, hơn hai ngàn năm
ddowifddowif thịnh trị. Cha truyền con nối kiếp nhau đều gọi là Hùng vương. Ngọc
bạch sơn hà thống nhất, đó chính là tổ tiên của bách Việt vậy. Đến thời Lương
Võ Đế, lấy tiêu Tư làm quan thái thú nước Vieetnj ta, hắn là người tham tàn, bạo
ngược, khiến dân sinh nước Việt lầm than khổ cực, chưa từng có trong lịch sử. Bấy
giờ có người Thái Bình,nước Việt ta họ Lý tên Bôn, văn vó song toàn, có khí chất
của bậc đế vương, đứng lên khởi nghĩa ở Long Biên , lúc này Triệu Quang Phục
làm tả tướng quân đánh một trận Tiêu Tư bại trận , Lý Bôn tự lập làm Lý Nam Đế.
Sau khi Lý Nam Đế qua đời, quyền bính chuyển cho tả tướng quân Triệu Quang Phục.
Quang Phục liền chuyển binh về đầm Nhất Dạ, châu Tự Nhiên, đạo sơn Nam Thượng
phát hịch chiêu mộ anh hùng hào kiệt, chống lại quân Lương.
Truyền rằng: Trước đây tai xã Tiên Tích
, huyện Tiên Du, phủ Từ Sơn, đạo Kinh Bắc, có một tộc lớn họ Trương, tên húy là
Quang, Công lấy vợ tại xã Tam Sơn bản huyện. Quang Công vốn gia truyền thi lễ,
văn vó song toàn, thông minh lanh lợi. Triệu Việt Vương triệu về triều và phong
cho ông làm phủ Hạ Hồng, 3 tháng sau Công nhàn du trong nội phủ, vào một hôm đến
xã Vú Xá thì trời gần tối. Phụ não mới về
làng nghỉ, tại đây có người họ Hoàng, húy Điền Công có người con gái tên là Hồng
Nương vừa tròn 18 tuổi, xinh đẹp tuyệt trần, lại tâm tòng tứ đức. Phủ quan liền
mang hoàng kim ngũ bốt biếu Điền Công. Phủ Công liền gả cong gái cho. Phủ quan
cùng Hồng nương trở về Phủ sĩ ( Cổ Am) ). Sau đó Hồng phu nhân có mang, thai vừa
trong 11 tháng, vào ngày 15 tháng 8 năm Giáp Thìn, sinh được hai người con
trai. Cha mẹ nuôi dưỡng chu đáo, ngày qua tháng lại đã được 5 năm, hai công đã
hiểu âm luật . Phủ công cả mừng cho là phúc hữu trùng lai do trời ban vậy, liền
đặt tên cho con trưởng là Uyy công, con thứ hai là Diệu công.Đến khi hai công
trưởng thành cho đi học tại nhà cậu ngoại.
Từ đó, Trương Uy, Trương Diệu hết lòng
đèn sách ,gắng sức lập công danh, anh thì văn chương quán triệt, em thì võ nghệ
tinh thông. Cậu ngoại thường khen rằng: “ Nhà
này sinh được hai con trai tài giỏi,có
phúc văn võ xong toàn, ngày sau tôn chuasche chở cho dân”. Đến khi nhà
Lương sai quân sang đánh Triệu Việt Vương, trương Uy, trương Diệu nhận thấy thế
lực còn yuues, bèn tập hợp nhân dân Vũ Xã trở về hương quán, gặp lúc phụ mẫu
qua đời ( Ngày 15 tháng 5). Hai anh em trọn nơi đát tốt an táng gia đường, lại
nghe tin Triệu Việt Vương phát hịch chiêu dụ anh tài hào kiệt khắp nơi để đánh
quân Lương. Hai anh em liền về triều ứng thí, thấy hai công đều tài giỏi liền
phong cho anh làm “ Tả Đô Đốc Uy tướng
quân”, phong cho em làm “ Hữu Đô Đốc
Diệu tướng quân”. Anh em chia đường đánh quân Lương, chém được Dương Sàn,
quân lương đại bại. Trở về được Triệu Việt Vương ban cho hai công thực ấp tại
xã Vũ Xá, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng . Từ đó thiên hạ thái bình. Triệu Đế lại
gia phong cho Lưỡng Công ,một người làm
“ Hiệp thống uy công đai thần quan” thăng đạo Hải Dương, kiêm Đông Quảng,
Quảng Tây- ba đạo. Một người làm “ tổng thống Diệu Công đại thần quan” thăng 3
đạo Kinh Bắc, thái Nguyên ,Lạng Sơn được hơn 20 năm phú quốc bình cường, phong
tục thần hậu, nhân dân sống yên vui, tất cả đều nhờ ơn hai Công vậy. Truyền rằng:
Bấy giờ Trương Uy ,Trương Diệu xin vua phụng đón sắc chỉ trở về Vũ Xá để lập
sinh từ, Triệu Việt Vương Vương liền thủ bụt phê son cho hương Vú Xá binh
lương, thuế lệ tất cả được miễn, cho hai anh em khi sống thì hưởng lộc, chết
cho làm miếu thờ tự tại đây. Lưỡng Công giáo hóa nhân dân Vũ Xá được 3 năm lấy
nhân nghĩa mà cố kết nhân tâm, để hòa mục mà tạo thành mỹ tục.
Việt Vương ở ngôi được 20 năm,con rể là Nhã
Lang lấy trộm móng rồng , nỏ thần đem về cho cha ruột là Lý Phật Tử. Lý Phập Tử
liền mang 20 vạn quân đến đánh Việt Vương, vương thua chạy ra cửa biển Đại Nha
mà hóa. Lý Phật Tử lên ngôi Hoàng Đế hiệu là Hậu Lý Nam Đế. Trương Uy, Trương
Diệu thề không đội trời chung liền nhổ kiếm phi về Vũ Xã, phát hịch chiệu mộ
binh sĩ, anh hùng hào kiệt khắp nơi. Thiết lập đại bản doanh tại Hán Tri chiến
với Hậu Lý Nam Đế. Được hơn 6 năm chưa phân thắng bại, binh lương thuế lệ tại xứ
Đông đều thuộc lưỡng công. Lưỡng Công thích vui chơi, thưởng ngoạn cảnh đẹp,
vào một ngày đẹp trời, hai ông lên thẳng núi Yên Tử ngoạn cảnh, rồi hóa tại đây
vào ngày 15 tháng 111năm Bính Ngọ (586). Hôm đó nhân dân Vũ Xã thấy Lưỡng vị Đại
Vương đã hóa liền hành lễ bái lập hai miếu thờ tự tại ngay bản cung của Lưỡng
Công.
Hiện nay, tại di tích còn lưu giữ được 01 sắc
phong dưới thời nguyễn đó là
- 1 đạo sắc do vua Khải Định năm thứ 9
phong vào ngày 25 tháng 7 năm 1924
-Dịch nghĩa:
Ngày
25 tháng 7 năm thứ 9 niên hiệu Khải Định ( 1924).
Sắc cho xã Đà Phố huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải
Dương theo trước thờ phụng “ Uy linh hiệu ứng hoàng diên mặc phù tôn
thần”, nguyên tặng “ Linh phù dực bảo
Trung Hưng tôn thần”( Vị thần tôn kính linh thiêng phù hộ, giúp đỡ buổi
Trung Hưng). Có công giúp nước che chở cho dân, linh thiêng hiển ứng đã được đội
ơn ban cho sắc phong,cho phép phụng thờ.
Đến nay , trẫm vừa tròn 40 tuổi , lễ lớn chúc mừng. Đã từng ban cho chiếu bâu,
ban ân rộng rãi. Lễ long trọng có phong tước vị, nổi tiếng tặng thêm: “ Đoan Túc Tôn Thần” ( Vị thần tôn
kính, đoan trang, nhiêm túc). Đặc biệt cho phép xã phụng thờ, lấy ngày lế lớn
làm ngày quốc khánh ghi vào kinh điển tế tự - Kính thay.
Miếu Tây Đà Phố không chỉ là nơi thờ thành hoàng làng mà trong kháng
chiến chống Pháp, và chống Mỹ nơi đây đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng
của địa phương:
Từ
năm 1944 và sau cách mạng tháng 8 năm 1945, thời kỳ bí mật Miếu Tây là nơi liên
lạc và hoạt động của Việt Minh, tuyên truyền vận động nhân dân chống Nhật, Nơi
thành chi bộ Đảng cộng Sản Đông Dương Đà Phố; nơi Đại hôi Đảng bộ huyện Ninh
Gang lần thư nhất, về thời gian, nhân chứng, sự kiện, còn được ghi lại dưới
đây:
Thán 5 năm 1945 trung tâm Việt Minh huyện
Ninh Giang bí mật phái thầy giáo Phạm Xuân Phong dậy học ở trường sơ đẳng tổng
Đà Phố. Thầy giáo đã tổ chức nhóm Việt Minh Đà Phố gồm 3 đồng chí: Nguyễn Hữu
Ba, Nguyễn Duy Thân, Hoàng Văn Bật và phát triển đến trước 19/8/1945 lên tới 32
đồng chí, đã tổ chức 5 cuộc tuyên truyền chống Nhật, ửng hộ Việt Minh; Cước vũ
khí ở kho muối Ninh Giang và đêm 18 rạng ngày 19/8/ 1945 tham gia cướp chính
quyền tại phủ lị Ninh Giang.
Ngày 15 tháng 11 năm 1945 đồng chí Nguyễn
Khoái được tỉnh ủy Hải Dương phái về Miếu tây Đà Phố, tổ chức kết lạp vào Đảng
3 đồng chí Nguyễn Hữu Ba, Nguyễn Duy Thân, Hoàng Văn Bật chi bộ này là tiền
thân của Đảng bộ xã Hoonhf Phú, đây là chi bộ có sớm nhất huyện Ninh Giang.
Ngày 15 tháng 10 năm 1946 Đại hội Đảng bộ
huyện Ninh Gianglần thứ nhất được tổ chức tại Miếu Tây thôn Đà Ph, có 30 đại biểu
được bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ huyện 7 đồng chí. Đồng chí Đàm Quang Vĩ được
bầu làm Bí thư , Đại hội được đón đồng chí Nguyễn Chương, xứ ủy Bắc Kỳ về dự và
chỉ đạo Đại hội.
Năm 2000 Huyện ủy – UBND huyện Ninh Giang xây
dựng nhà bia lưu niệm tại Miếu Tây Đà Phố về 2 sự kiện nối trên, để thế hệ sau
học tập và giữ gìn.
* Phong tục lễ hội:
Dưới thời phong kiến, Làng Đà Phố có nhiều
kỳ lễ hội, nhưng quan trọng nhất là hai kỳ lễ: Lễ kỷ niệm ngày sinh hai vị
thành hoàng 15 tháng 08 và lễ kỷ niệm ngày mất từ ngày 15đến ngày 17 tháng 11
âm lịch. Lễ ngày 15 tháng 8 là ngày sinh, nhân dân mở cửa đình từ chiều ngày
14, và tổ chức rước ngai thờ từ Miếu Đông về Miếu Tây về đình để tế yết. Chiều
ngày 15 lại rước về và đóng cửa đình, không có các trò chơi dân gian, quy mô lễ
hội nhỏ. Trong một năm lễ hội lớn nhất là lễ hội kỷ niệm ngày mất của Trương
Uy, Trương Diệu, được tổ chức từ ngay 14 đến ngày 17 tháng 11 âm lịch, Trong đó
ngày 15 là ngày chính hội . Xin nêu tốm tắt một số nét chính của lễ hội này.
Vào những tháng cuối năm, sau khi đã thu
hoạch mùa mạng, người dân nơi đây đã sớm chuẩn bị cho lễ hội. Họ dùng những sản
vật nông nghiệp dâng lên cung thỉnh Thành hoàng làng.
- Ngày 14 là ngày mở của đình,Miếu Đông
và Miếu Tây, các bô lão và trai tráng trong làng dọn dẹp, chồng kiệu, bao sái đồ
thờ, dọn dẹp đường làng ngõ xóm để phục vụ lễ hội.
Ngày 15 là ngày chính hội. Tại Làng Đà Phố có
4 giáp: Giáp Đông, Tây, Nam ,Bắc các bô lão, trong làng đã tập trung ra đình từ
ngay sáng sớm để chuẩn bị lễ vật. Trai tân từ 18 tuổi ăn mặc chỉnh tề để rước 2
kiệu, trên 2 kiệu có bát hương, mũ cánh chuồn của Uy Công và Diệu Công từ đình
ra Miếu Đông ( nơi thờ Trương Uy cách đình 300m về phía Đông),sau đó tiếp tục
rước Miếu Tây ( nơi thờ Trương Diệu). Đoàn rước có bát bửu, bát âm, long đình,
kiệu bát cống đi thành hangftuwf đình ra Miếu Đông, từ Miếu Đông thì dừng lại lễ
nghênh thần. Sau đó rước tiếp về Miếu Tây làm lễ nghênh thần rồi về đình , lại
tiếp tục tế lễ( trước năm 1945 trở về trước quan tri huyện phải về làm chủ tế).
- Ngày 15 là ngày thi các mâm cỗ to, thi
lợn tế,và xôi nếp. Theo hương ước của làng thì mỗi giáp được chia ruộng công, để
đến ngày lễ hôi, các giáp phải có một mâm ngũ quả, 1 con lợn tạ và xôi nếp vừa
để lễ Thành hoàng langfvuwaf để làm cỗ thi, sau đó phân tán về 4 giáp. Vì muốn
giật được giải đòi hởi mỗi giáp cẩn thận trong việc làm ỗ.
-
Ngày 16 nhân dân trong làng và các làng lân cận tiếp tục tổ chức tế lễ, và tổ
chức các trò chơi .
- Ngày 17 nhân dân lại tập trung trai
tráng rước linh vị Trương Uy, Trương Diệu về an vị tại hai Miếu. Sau đó tế dã
đám, kết thúc lễ hội.
Trong những ngày lễ hội có nhiều trò
chơi dân gian được tổ chức như: Múa rối nước, vật, cờ người, bịt mắt bắt dê, đi
cầu thùm, bắt vịt tỏ tôm điếm.tối có thể tổ chức hát chèo. Hoạt động lễ hội là
sinh hoạt tín ngưỡng không thể thiếu được của nhân dân địa phương.
Ngoài ra theo lệ làng quy định, hàng năm
vào dịp tuần dằm đình đám. Nam giới phải lần lượt làm xôi, thịt, chè để chức dịch
và hàng giáp ăn uống.
Năm
1945 lễ hội làng Đà Phố không được tổ chức do đất nước ta bước vào thời kỳ
kháng chiến trường kỳ, đình Đà Phố bị giặc đốttháng 3 năm 1950. Miếu Tây bị phá
năm 1972; năm 1975 chuyển Miếu đông về dựng tại Miếu Tây và rước linh vị Trương
Uy về thờ chung với Trương Diệu. Từ đó đến nay Miếu Tây trở thành trung tâm
sinh hoạt tín ngưỡng của làng Đà Phố.
Đến năm 2000 lễ hội mới được mở lại tại
Miếu Tây, hình thức tuy đơn giản, nhưng đáp ưng được cuộc sống tinh thần của mọi
tầng lớp nhân dân.
IV-
KHẢO TẢ DI TÍCH
Miếu Tây Đà Phố được xây dựng từ lâu,
trên gò đất cao giữa cánh đồng, bên cạnh là chùa Khánh Linh , có kiến trúc chữ
Đinh ( ) gồm 3 gian tiền đường và hai gian thượng điện mới
được khôi phục năm 2000, Miếu chùa chạy dài theo hướng Bắc –Nam .Theo thuyết
phong thủy thế đất của miếu chàu nắm trên đuôi con rồng, mà đầu rồng là gò đất
gần miếu Đông. Phía trước có ao miếu, xa xã là dòng sông Luộc quanh co uốn lượn.
Do năm tháng và chiến tranh nên cảnh quan khu di tích đã biến dạng đang trong
quá trình tu tạo.
Trong khoảng thời gian nội tự được xá định
3.089 m2, miếu Tây Đà Phố kiến trúc kiểu chữ Đinh ( J) gồm Tền tế 3 gian hồi
bít đốc và 1 gian Hậu cung,Tiền tế và Hậu cung chất liệu bằng gỗ lim .
Từ ngoài nhìn vào, khu Miếu Tây Đà Phố
khá bề thế, hấp dẫn. Nhà Tiền tế mới dựng lai năm 1975 do lấy toàn bô kiến trúc
ngôi miếu Đông ( miếu cũ do giặc pháp đốt tháng 3 năm 1950 ), trên câu đầu Tiền
tế có dòng lạc khoản dựng trụ thượng lương giờ tốt ngày lành tháng 2 dương lịch
Mậu Tuất – niên hiệu Thành Thái 10 ( 1898). Tiền tế gồm 3 gian, lợp ngói mũi,
hai hồi được đắp nổi đề án “ Hổ Phủ”- hình tượng văn hóa phồn
thực cầu no đủ của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Hệ thống bẩy hiên được trạm
nổi đề tà lá lật, lá lật hóa long, hai bẩy ở giữa chạm nổi hai con rồng mang
phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Mặt trước được lắp đặt 2 bộ cửa thượng song
hạ bản. Tòa Tiền tế dài 12,6m , rộng 5,6m, cao 4,87m , có kiến trúc kiểu kẻ
chuyền chồng chóp, lòng mở theo công thức “ Thượng tứ hạ ngũ”, đây là một
tòa nhà đẹp, chắc chắn và khá hoàn thiện. Kết cấu chính của tòa nhà này là các
vị kèo , hệ thồng xã, hoành, và kẻ liền bẩy. Tòa tiền tế gồm 4 vì kèo hồi có kiến
trúc giống nhau, 2 vì kèo giữa có kiến trúc phía trước là kẻ liền bẩy, vì nách
phía sau giáp với 2 xối là hệ thống con chồng; hệ thống các chi tiết của vì kèo
khá đầy đủ bao gồm cột cái có đường kính 27cm, cột quân đường kính 20cm, các
chi tiết khác như kẻ liền bẩy, câu đầu, trụ, các con thuận, gường bụng lợn, đều
được các nghệ nhân dân gian chế tạo khá hoàn chỉnh và nghệ thuật. Các vì kèo
này
Có hệ thống kẻ liền bẩy, kẻ đi qua đầu cột
quân và cột cái đỡ câu đầ. Trên câu đầu là 2 khoảng giường phía trên có giường
bụng lợn, tạo thành giá chiêng khá hoàn chỉnh. Liên kết giữa các vì kèo ở các
gian là hệ thốn xà quân, xà thượng. Các thanh xã đều được soi chỉ, tạo má chai
bào nhẫn khá chắc chắn.. Hệ thống dui, lá mái, tầu , gộp mái chắc chắn, tao
dáng đẹp cho toàn ngôi miếu.
Bài trí thờ tự tại đây gồm có: 1 nhang
án và một số đồ thờ mới do nhân dân công đức. Trên khung xã được lắp đặt 1 bức
đại tự mới làm năm 2002:
Phiên
âm: “ Hách trạc Thanh Linh”
Nghĩa :Tiếng linh thiêng hiển hách trong sạch
Phía dưới đại từ là y mongoox sơn son thếp
vàng làm năm Tân Hơi –niên hiệu Duy Tân( 1911). Hai bên cột có 2 câu đối
Phiên âm: Vũ Xá sinh thời kim tự
taijYeen Sơn linh tích cổ do truyền
Nghĩa : Vũ Xá đền thờ lúc còn sống nay vẫn
còn tồn tại
Yên Sơn dấu tích linh thiêng từ sưa vẫn
lưu truyền
Tiếp đến tiền tế là Hậu cung. Công trình
1gian bằng gỗ lim. Kiến trúc tại gian Hậu
cung rất độc đáo, toàn bộ vì kèo và hai cột vì ngoài của Hậu cung được thay thế
bằng vì kiểu vành mai trạm nổi lương long chầu nguyệt được sơn son thếp bạc. Vì
kèo thứ 2 sát tuwowngfcos kiến trúc vì chính thay bằng bức cuốn trạm hổ phù ,
hai bên vì lách có cuốn trạm nổi vân hóa long. Vì kèo này đã được sơn son thếp
bạc. Về phần nề ngõa hậu cung được làm giống như tiền tế. Chỉ khác Hậu cung
không có cửa, để thông với Tiền tế.
Khác với Tiền tế, bài trí thờ tự tại Hậu
cung được thể hiện khá trang nghiêm. Chính giữa là 2 khám thờ bên trong có tượng
Trương Uy, Trương Diệu. Tượng chất liệ gỗ do nhân dân công đực năm 2000. Về mặt
tạo hình, Trượng Trương Uy được tạc theo tư thế ngồi trong ngai, phỏng theo
dáng tượng thời Nguyễn TK19. Hai chân để xuôi, tay phải đặt trên đùi, cổ tay
nâng cao,lòng bàn tay cầm cuốn thư, ngón khép lại.Tay trái đặt trên đùi, lòng
bàn tay úp xuống, mũi hướng về phía trước. Khuôn mặt sáng quắc thước, mắt nhìn
thẳng, râu rậm, miệng hơi mỉm cười . tượng Trương Diệu cũng tác giống tượng
Trương Uy, chỉ khác tay phải cầm bút, phía trước là bộ phận tam sự gồm đỉnh
hương đồng và 2 con hạc. Đối xứng hai bên được bài trí đôi lục bình , cây nến,
mâm bồng, bát hương... theo nguyên tắc cân đối, đăng đối tạo sự nghiêm trang.
V-
PHÂN LOẠI DI TÍCH:
Qua việc khảo sát, nghiên cứu tại di
tích và các tài liệu có liên quan như thần tích ,sắc phong, câu đối, đại tự ...
Căn cứ vào các công trình kiến trúc, đặc biệt di tích gắn liền với phong trào
cách mạng của địa phương, cũng như của huyện Ninh Giang, lên chúng tôi thấy di
tích đạt được yuees tố : Lịch sử văn hóa, Vì vậy đề nghị Ủy
ban nhân dân tỉnh Hải Dương xếp hạng di tích thuộc loại LỊCH SỬ VĂN HÓA
VI-
CÁC HIỆN VẬT TRONG DI TÍCH
Trước đây di tích có khá nhiều cổ vật
quý, nhuwnh trải qua chiến tranh và thiên nhiên tàn phá, nhiều cổ vật đã bị mất
mát , hư hỏng, nhất là hệ thống bia ký, câu đối, đại tự dụng cụ rước thần ...
Tuy vậy, hiện nay Miếu Tây Đà Phố vẫn còn lưu giứ một số cổ vật có giá trị;
+ 1 con lân đá thời Nguyễn( đầu TK20)
+ Hai con voi đá thời Nguyễn ( đầu TK20)
+ 1 ngai thờ sơn son thếp vàng thời Nguyễn
( đầu TK20)
+ 2 pho tượng Trương Uy và Trương Diệu
+ 1 y môn gỗ sơn son thếp vằn năm 1911
+ 1 hòm sắc sơn son thiếp bặc thời Nguyễn
( đầu TK20)
+ 1 sắc phong năm Khải Định 9 ( 1924)
+ 1 quyển thần tích thời Nguyễn
Và
một bồ tế tự khác do nhân dân mới sắm.
VII- GIÁ TRỊ LỊCH SỬ KHOA HỌC:
Miếu Tây Đà Phố là một di tích lịch sử -
văn hóa tôn thờ hai vị thành hoàng Trương Uy, Tương Diệu. Tiểu sử của các ngài
đã được ghi trong thần tích, sắc phong, câu đối, đại tự và trong tài liệu lưu
trữ tại viện thông tin khoa học xã hội. Nghiên cứu thân thế, sự nghiệp của vị
thành hoàng làng giúp chúng ta hiểu thêm thân thế về xã hội Việt Nam dưới thời
Bắc thuộc và cuộc đấu tranh dành độc lập, tự chủ của Triệu Việt Vương.
Đối với địa phương, Trương Uy, Trương Diệu
là liềm tự hào của mọi thế hệ. Tại di tích, đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử
quan trọng của địa phương và huyện Ninh Giang, nơi ghi dấu ấn văn hóa, tín ngưỡng
làng xã dưới thời phong kiến, đây là những phong tục tập quán, văn hóa phi vật
thể của dân tộc mà Đảng và Nhà nước gia sức giữ gìn. Nghiên cứu thân thế sự
nghiệp của thành hoàng làng Đà Phố và phong tục lễ hội, giúp chúng ta nghiên cứu
lịch sử địa phương một cách thuận lợi.
VIII-TRẠNG THÁI BẢO QUẢN DI TÍCH.
Là một di tích mới được khôi phục lại,
nhìn chung các hạng mục của công trình còn khá bần vững. Tuy nhiên, do nhiều
hoàn cảnh khác nhau, lên di tích chưa được thường xuyên tu bổ, hệ thống sân vườn
và các công trình phụ cận từng bước được quy hoạch. Trọng những năm gần đây,
chính quyền và nhân dân đã có ý thức trong việc bảo vệ, tu sửa và giữ gìn do vậy
di tích đang ngày một khang trang.
Hiện nay, di tích đã có ban quản lý do
thôn cử ra, các thành viên hoạt động tích cực. Ban quản lý luôn được củng cố và
điều hành việc tu sửa cũng nhhuw hoạt động tín ngưỡng và tích cực và kêu gọi mọi
tầng lớp nhân dân giữ gìn và tôn tạo khu di tích. Nhân dân trong thôn rất ngưỡng
mộ, có ý thức và hăng hái công đức tiền, của, để chống xuống cấp và tôn tạo di
tích. Tuy nhiên lực lượng bảo vệ còn mỏng, miếu lại xa khu dân cư, vì vậy ban
quản lý cần có kê hoạch bảo vệ các cổ vật, không để các đồ thờ tự hoặc tài sản
bị mất mát hư hỏng thất lạc trong thời gian tới khi miếu Tây Đà Phố được xếp hạng,
UBND xã sẽ tăng cường sự lãnh đạo, chắc chắn việc giữ gìn, phát huy tác dụng của
di tích sẽ được tốt hơn.
IV-
PHƯƠNG ÁN BẢO VỆ VÀ SỬ DỤNG DI TÍCH:
-Trước hết là củng cố ban quản lý di
tích, đề cao tinh thần bảo vệ, giữ gìn và phát huy tốt tác dụng của di tích.
Khi được xếp hạng, di tích thuộc quyền quản lý của UBND xã chắc chắn hiểu quả sẽ
cao hơn.
- Tiếp tục động viên nhân dân địa
phương, phát huy quyền làm chủ của mình trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời xây dựngphương
án tổ chức lễ hội đáp ứng nhu cầu tín
ngưỡng của nhân dân.
- Để thực hiện tốt việc bảo tồn di tích,
địa phương cần có kế hoạch triển khai Luật Di sản văn hóa đã được Nhà nước công
bố năm 12//07/2001, giáo dục toàn dân có ý thức bảo vệ di sản văn hóa của dân tộc,
tiếp tục tu sửa di tích ngày một khang trang.
- Thực hiện tốt việc khoanh vùng quy hoạch
tổng thể khu di tích để phát triển khu di tích trong tương lai.
- Lập Dự án tu bổ, tôn tạo chống xuống cấp
cho toàn khu di tích.
X-
CƠ SỞ PHÁP LÝ ĐỂ BẢO VỆ DI TÍCH:
- Ngày 23/11/1945 Hồ Chủ Tịch đã ký xác
lệnh số 65 về việc “Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam”. Sắc lệnh nêu rõ:
“Cấm phá hủy đền, chùa, miếu, bia ký, đồ vật, chiếu sách, văn bằng, giấy má,
sách vở, có tích chất tôn giáo nhưng vẫn có ích cho lịch sử”.
- Ngày 19/10/1957 Thủ tướng Chính phủ đã
ký Nghị định số 59/TTG về việc bảo vệ các di tích lịch sử.
- Ngày 04/04/1984 Nhà nước đã ban hành
“Pháp lệnh bảo vệ di tích lịc sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh”.
- Ngày 12/07/2001 Nhà nước đã công bố Luật
di sản văn hóa số 09/2001/L- CTN.
- Ngày 11/11/2002 Chính phủ đã ra Nghị định
số 92/2002/NĐ-CP về việc quy định chi tiết thi hành môt số điều của Luật di sản
văn hóa.
- Tỉnh Hải Hưng trước đay là tỉnh Hải
Dương ngày nay đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác bảo tồn di tích.
Thực hiện Sắc lệnh, Nghị định, Pháp lệnh
của Nhà nước năm 1972 và năm 1994 Bảo tàng Hải Hưng nay là Bảo tàng Hải Dương
đã kiểm kê, đăng ký bảo vệ di tích miếu Tây Đà Phố, xã Hồng Phúc, huyện Ninh
Giang.
Căn cứ vào giá trị của di tích và nguyện
vọng của cán bộ và nhân dân địa phương; Bảo tàng Hải Dương đã cử cán bộ chuyên
môn, kết hợp với địa phương lập hồ sơ di tích chính thức đề nghị Ủy ban nhân
dân tỉnh xếp hạng di tích nói trên. Trên cơ sở đó, địa phương mới có cơ sở pháp
lý để giữ gìn và phát huy tác dụng của di tích.
Tập
hồ sơ này bao gồm:
1 - Lý lịch di tích.
2 - Tập ảnh khảo tả kiến trúc di tích và
cổ vật.
3 - Tập bản vẽ kiến trúc di tích.
4 - Bản đồ đường chỉ dân đi đến di tích.
5 - Biên bản
khoanh vùng bảo vệ di tích.
6 - Bản đồ khoanh vùng bảo vệ di tích.
7 -Tư liệu Hán Nôm.
8 -Tờ trình của Sở Văn hóa Thông tin.
XI-
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Để hoàn thành tập hồ sơ này, chúng tôi
đã tham khảo và trích lục 1 số tài liệu sau đây:
1 - Lịch sử Việt Nam tập 1, NXBĐH và
THCN Hà Nội 1985.
2 - Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19 -NXBKHXH,
Hà Nội 1981
3 - Thần tích, thần sắc hiện lưu trữ tai
Viện Thông tin Khoa học xã hội Việt Nam,
4 - Thần tích, sắc phong, đại tự, câu đối
tai di tích.
5 - Niên biểu lịch sử Việt Nam;
6 - Các tài liệu có liên quan đến thời Bắc
thuộc.
7 - Lịch sử đảng bộ xã Hồng Phúc.
XII.
CÁN BỘ NGHIÊN CỨU LẬP HỒ SƠ DI TÍCH
- Chủ trì hồ sơ: Phạm Khắc Cường
- Điền dã, nghiên cứu, tra cứu, biên soạn
lý lịch:
Phạm
khắc Cường
- Đạc họa kiên trúc: Đặng Anh Dũng
- Ảnh tư liệu: Phạm Khắc Cường
- Tài liệu Hán Nôm: Nguyễn Thi Ngọc Lan
Hồ sơ hoàn thành
tháng 7 năm 2015