DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN XÃ KIẾN QUỐC, HUYỆN NINH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG
11/07/2023 08:34:00

 I. DI TÍCH LỊCH SỬ CẤP QUỐC GIA – ĐỀN THỜ KHÚC THỪA DỤ

Di tích lịch sử quốc gia Đền thờ Khúc Thừa Dụ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Di tích được gọi theo tên danh nhân Khúc Thừa Dụ - người xây dựng nền tự chủ thế kỷ thứ X.

Đền thờ Khúc Thừa Dụ và đình Cúc Bồ được xây dựng trên một khuôn viên đất có diện tích 15.000m, thuộc xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Đền thờ Khúc Thừa Dụ được xây dựng ở phía trước và cách đình Cúc Bồ khoảng 4m về hướng Tây. Toàn bộ khu vực đền thờ Khúc Thừa Dụ và đình Cúc Bồ có tường bao quanh, mặt tiền đều quanh hướng Tây nhìn ra sông Luộc, qua dòng sông Luộc sang bờ bên kia là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; phía Nam và phía Đông giáp đường làng; phía Tây giáp ruộng canh tác và khu dân cư; phía Bắc giáp khu dân cư. Tuy trên một khuôn đất, nhưng đều có cổng riêng, vào đền đi theo hướng Nam, đình theo hướng Đông.

Căn cứ vào các tài liệu đã công bố: Cúc Bồ xưa thuộc đất Hồng Lộ. Thời Lý - Trần (thế kỷ XIII - XIV thuộc đất Hồng Châu (1), phủ Hạ Hồng. Vào đầu thế kỷ XIX, Cúc Bồ thuộc tổng Bồ Dương, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, trấn Hải Dương (2); nguyên trước là hai thôn Cúc và thôn Bồ (3). Tổng Bồ Dương gồm 7 xã: An Cúc, Bồ Dương, Cúc Bồ, Động Trạch, Lũng Quý, Quang Dực và Ngọc Chi.

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, hai thôn Cúc và thôn Bồ sáp nhập thành một, có tên chung là Cúc Bồ. Tiếp đến hai thôn Ngọc Chi và An Cúc sáp nhập thành thôn Ngọc Cúc. Cuối năm 1946, thôn Ngọc Cúc sáp nhập thêm thôn Lũng Quý thành xã Tân Mỹ. Đầu năm 1947, Tân Mỹ sáp nhập với thôn Cúc Thị thành xã Tử Mỹ. Cũng vào cuối năm này, nhập thôn Cúc Bồ với xã Tử Mỹ thành xã Kiến Quốc.

Năm 1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 504-NQTVQH phê chuẩn việc hợp nhất hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành một tỉnh, lấy tên là Hai Hưng. Từ đây, xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Hưng, Năm 1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 70/CP về việc hợp nhất và điều chỉnh địa giới 13 huyện của tỉnh thành 7 huyện mới. Trong đó hợp nhất huyện Ninh Giang và huyện Thanh Miện thành huyện Ninh Thanh, huyện lỵ đặt tại huyện Thanh Miện cũ. Theo đó xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng.

Sau ngày tái lập tỉnh, huyện (1997), xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương,

Kiến Quốc là một xã lớn, nằm ở phía Tây và cách thị trấn Ninh Giang khoảng 7km. Địa hình xã giống như ống tay áo xuôi theo hướng Bắc - Nam. Về đường bộ, xã có đường tỉnh lộ 396, đường đê sông Luộc, các đường liên xã, liên thôn được bê tông hoá. Về đường thuỷ, xã nằm bên bờ sông Luộc, một phụ lưu của sông Hồng. Sông khá rộng và sâu, xuôi xuống phía Đông ra cảng Hải Phòng, sang đất mỏ Quảng Ninh, ngược về phía Tây đi thị xã Hưng Yên đến thủ đô Hà Nội rồi theo sông Hồng tới Lào Cai. Đây cũng là đường thông thương với các tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định... Sông Luộc không chỉ là đường giao lưu kinh tế, buôn bán với các tỉnh thành mà còn là môi trường thuận lợi cho nghề đánh bắt thuỷ sản, cung cấp nước ngọt, đất phù sa cho Kiến Quốc cũng như các xã ven sông. Diện tích tự nhiên của xã: 559,29ha, dân số gồm 7.125 người. 1.833 hộ. (tính đến tháng 12 năm 2010), gồm 5 thôn: Cúc Bồ, Ngọc Chi, An Cúc, Lũng Quý và Cúc Thị. Trong đó, thôn Cúc Bồ xưa có tên nôm là làng Gọc. Tại đây từng có Gọc bến (bến sông cổ) và Gọc chợ (nay là thôn Cúc Thị). Đất Cục Bổ khá màu mỡ, có những bãi cói, hoa cúc và hoa Bồ mọc tự nhiên ven sông - những loài cây thích hợp với thổ nhưỡng vùng nước lợ. Có thể do một sự biến thiên xã hội nào đó của địa phương, tên loài hoa đã trở thành tên của vùng đất Cúc Bồ ngày nay (?). Nguồn thu nhập trong cuộc sống hàng ngày của người dân nơi đây chủ yếu bằng nghề trồng lúa, trồng mầu, trồng bông trên các chân ruộng cao, bãi bồi ven sông và chăn nuôi gia súc, gia cầm và có thêm một số nghề phụ như đan lát, đơm đăng chài lưới, đánh bắt tôm cá, cơ khí, vận tải, dịch vụ...riêng thôn Cúc Bồ có thêm nghe mộc truyền thống xây cất các đình, chùa nổi tiếng trong và ngoài tinh. Nhờ vậy. mức sống của nhân dân tương đối cao. Ngạn ngữ xưa trong vùng từng có câu: “Tiền làng Gọc, thóc làng Chuông (4).

Căn cứ vào bản đồ hành chính tỉnh Hải Dương năm 1997, xã Kiến Quốc có vị trí địa lý như sau:

- Phía Đông giáp xã Hồng Phong và Ninh Hải (huyện Ninh Giang);

- Phía Tây giáp xã Hồng Phúc và Tân Phong (huyện Ninh Giang);

- Phía Nam là sông Luộc, bên kia sông thuộc địa phận xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình;

- Phía Bắc giáp xã Đông Xuyên (huyện Ninh Giang).

b. Đường đi đến di tích:

Đền thờ Khúc Thừa Dụ, nằm cách trung tâm thành phố Hà Nội 85km về phía đông, cách thành phố Hải Dương 25km về phía Nam.

Du khách về tham quan di tích có thể đi bằng nhiều đường và các phương tiện khác nhau như: ô tô, xe máy, xe đạp đều rất thuận lợi.

Từ thành phố Hà Nội du khách đi theo quốc lộ 5 (Hà Nội - Hải Phòng) về đến địa phận huyện Bình Giang - nơi đầu tiên của tỉnh Hải Dương trên đường Hà Nội về, gặp biển chỉ dẫn đi Kẻ Sặt, chúng ta tiếp tục đi vào đường 392 qua thị trấn Kẻ Sặt gặp quốc lộ 20 đi Thanh Miện khoảng 20km đến thị trấn Thanh Miện rẽ phải hướng đi Hưng Yên, qua cầu Neo rẽ trái đi Đảo Cò, khoảng 3km đến ngã tư hướng đi Đảo Cò rẽ trái đi đường liên huyện sang Ninh Giang khoảng 10km là đến di tích.

Từ trung tâm thành phố Hải Dương (tỉnh lỵ của tỉnh Hải Dương) theo quốc lộ 37 đi qua huyện Gia Lộc đến huyện Ninh Giang khoảng 28km, đi tiếp đến cầu Me, thuộc địa phận xã Đồng Tâm rẽ phải, đi khoảng 5km nữa là đến thôn Cúc Bồ - nơi có di tích.

Sự kiện, nhân vật lịch sử, đặc điểm của di tích:

Thế kỷ X, hào trưởng Khúc Thừa Dụ gốc Hồng Châu (huyện Ninh Giang ngày nay) đã chiêu tập nhân dân, dấy binh khởi nghĩa, giành độc lập sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc và tự xưng Tiết độ sứ.

Phong trào Cần Vương chống Pháp (1883 - 1888), người dân nơi đây đã cùng với nhân dân các vùng phụ cận thuộc Thanh Miện (Hải Dương), Vũ Thư (Thái Bình)... tham gia hưởng ứng khởi nghĩa Bãi Sậy của nghĩa quân Tán Thuật.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), do phong trào địa phương phát triển mạnh nên sau khi chiếm đóng Ninh Giang (tháng 10 năm 1949), thực dân Pháp đã tổ chức nhiều đợt càn quét khốc liệt nhằm triệt phá cơ sở kháng chiến. Tháng 01 năm 1950, quân Pháp ép dân làng phá dỡ đình, chùa, đền, miếu để xây dựng đồn bốt, nhân dân Cúc Bồ đã khéo léo vừa phá dỡ vừa bí mật chuyển cất dấu một phần kiến trúc và đồ thờ tự đến xóm Trung cùng thôn để bảo quản. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chính quyền và nhân dân địa phương đóng góp tiền của, công sức để tiếp tục khôi phục một phần di tích nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng. Năm 1989, chính quyền và nhân dân địa phương tiếp tục trùng tu đình Cúc Bồ theo kiểu chữ Đinh (J) trên cơ sở kế thừa kiến trúc miếu Cúc Bồ.

Tháng 7 năm 1999, trong khi nạo vét dọn hồ sen trước cửa đình Cúc Bồ nhân dân địa phương đã tìm thấy một số viên gạch, ngói có chữ Hán cùng một số cột lim dưới lòng hồ.

Tháng 9 năm 1999, Bảo tàng Hải Dương đã tiến hành đào thám sát, khai quật lòng hồ sen trước đình Cúc Bồ, với diện tích 80m chạy dài theo hướng Đông -Tây ở độ sâu 60cm so với mặt ruộng canh tác. Kết quả thu được 325 mảnh gốm, 2.154 mảnh ngói, 101 mảnh gạch và 5 mảnh đá, ngoài ra, còn tìm thấy 18 đoạn gỗ có đường kính trung bình 20cm. Trong số 2.154 mảnh ngói thì có 5 mảnh có chữ Hán. Theo đánh giá và kết luận của các nhà khoa học thì năm viên ngói hình ống có chữ Hán được viết theo lối hành thư có chữ “Khúc Miếu”. Những hiện vật có niên đại từ cuối thế kỷ X, cho phép kết luận nơi đây đã từng tồn tại những công trình kiến trúc thuộc về dòng họ Khúc, trong đó có “Khúc Miếu” tức đền thờ họ Khúc hoặc đền thờ Khúc Thừa Dụ vào cuối thế kỷ X.

Ngày 15 tháng 7 năm 2003, Sở Văn hoá Thông tin (nay là Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch) giao cho Bảo tàng Hải Dương tổ chức toạ đàm “Khúc Thừa Dụ và quê hương Cúc Bồ”. Đến dự và tham gia ý kiến có đại diện các nhà khoa học, quản lý, nhà nghiên cứu Trung ương và địa phương như: Cục Di sản văn hóa, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam, Viện Hán nôm, Tạp chí Xưa và nay, Hội Mỹ thuật Việt Nam và các cơ quan, ban, ngành từ tỉnh đến huyện; Đại diện dòng họ Khúc Việt Nam....

Hội nghị đã xác định nơi đây là quê hương họ Khúc và họ Khúc có nhiều công lao đóng góp cho công cuộc giải phóng dân tộc, xây nền tự chủ. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm đúng mức để tôn vinh cho xứng đáng với những đóng góp của Khúc Thừa Dụ và họ Khúc tại Cúc Bồ; việc làm đó được cụ thể bằng việc quy hoạch, xây đền thờ và tiến hành lập hồ sơ xếp hạng di tích để có cơ sở trong việc bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống tại địa phương.

 Năm 2004, UBND tỉnh Hải Dương xây dựng đền thờ Khúc Thừa Dụ. Năm 2009, khánh thành đền thờ Khúc Thừa Dụ và đưa vào khai thác sử dụng.

Nhân vật lịch sử:

Các nhân vật được thờ tại di tích là những người thuộc dòng họ Khúc (là nhân thần), có công chống lại ách đô hộ nhà Đường, khai mở nền tự chủ của Việt Nam vào thế kỷ X sau gần nghìn năm Bắc thuộc.

- Khúc Thừa Dụ - còn gọi là Khúc Tiên Chúa.

- Khúc Hạo - con trai Khúc Thừa Dụ - còn gọi là Khúc Trung chúa.

- Khúc Thừa Mỹ - con trai Khúc Hạo - còn gọi là Khúc Hậu chúa.

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, thế kỷ thứ X đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử. Ở phương Tây (Châu Âu), người ta gọi là năm một nghìn, thời kỳ phục hồi các thành thị, sau một “Đêm dài Trung Cổ”. Cũng là thời kỳ của các cuộc thập tự chinh - chiến tranh tôn giáo trong khốc liệt, cuồng tín nhưng lại tạo nền cho sự giao thương trở lại giữa Tây - Đông.

Ở Trung Hoa, sau sự sụp đổ của đế chế Đường (907) là một thời kỳ hỗn loạn “Ngũ đại thập quốc” (907 - 960), kết thúc bằng sự thống nhất dưới thời Tống, với trỗi dậy của ý thức dân tộc nguồn cội của người Hoa Hạ và sự ra đời của một ý thức hệ mới - Tống Nho mà các nhà Trung Hoa học phương Tây gọi là Tân Nho giáo, thay thế dần đạo giáo chính thống đời Đường.

Trong bối cảnh chung và khu vực Đông Á ấy, sau gần một ngàn năm chống Bắc thuộc, từ Trưng Vương (40 - 43) đến Lý Nam Đế (544 - 546) rồi Mai Hắc Đế (722), Bố Cái đại vương Phùng Hưng (767 - 791), cả thế lực nội sinh cùng với thời cơ ngoại sinh (thời - thế - cơ) đã đẩy nước Việt đứng lên dựng quyền tự chủ ở đầu thế kỷ X.

Người có công đầu trong cuộc tự chủ đó là họ Khúc ở Hồng Châu. Sự kiện này có thể tóm tắt như sau:

Vào đầu thế kỷ X, ở Trung Quốc, triều đình nhà Đường bước vào thời kỳ mạt vận. Tên Độc Cô Tổn là Tiết độ sứ tại nước ta lúc bấy giờ có ý làm phản, cát cứ chống lại triều đình trung ương, nên bị cách chức và bắt đi đày ở đảo Hải Nam rồi bị giết chết.

Nhân cơ hội đó, ở đất Hồng Châu, có người hào trưởng Khúc Thừa Dụ nổi tiếng khoan hoà, nhân nghĩa và có thế lực trong vùng, đã chớp thời cơ dấy binh khởi nghĩa. Được các đầu mục trong nước giúp sức, ủng hộ, Khúc Thừa Dụ mang đại quân đánh chiếm phủ Tống Bình - Đại La (tức Hà Nội ngày nay), xưng là Tiết độ sứ, mở nền độc lập cho dân tộc sau gần nghìn năm Bắc thuộc.

Để có thời gian xây dựng chính quyền non trẻ, Khúc Thừa Dụ cho một phái bộ sang thần phục nhà Đường, nhưng thực chất là dùng nhu chế cương. Niên hiệu Thiên Hựu năm thứ ba (906), nhà Đường buộc phải công nhận và thăng Tĩnh Hải Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ chức Đồng Bình chương sự. Rõ ràng chức Tiết độ sứ là do Khúc Thừa Dụ giành lấy và nhà Đường phải công nhận, còn phong thêm chức khác. Theo ý kiến của Giáo sư Trần Quốc Vượng thì đây là một hành động khôn ngoan, “cướp chính quyền một cách hòa bình để xây dựng chính quyền tự chủ trong hoàn cảnh lịch sử ngày xưa”. Tuy mang danh một chức quan nhà Đường, thực chất Khúc Thừa Dụ đã trở thành người làm chủ một trung tâm hành chính của đất nước, một sự kiện hàng nghìn năm trước đó chưa từng có. Ông được lịch sử đánh giá là ở người mở nền độc lập cho đất nước, còn nhân dân tôn vinh ông là Khúc Tiên Chúa.

Ngày 23 tháng 7 năm Đinh Mão (907), Khúc Thừa Dụ qua đời. Người con trai là Khúc Hạo thay cha, giữ chức Tiết độ sứ, tiếp tục sự nghiệp chăm lo xây dựng đất nước với nhiều chính sách cải cách quan trọng.

Khúc Hạo thay cha cai quản đất nước đúng vào thời kỳ nhà hậu Lương vừa thay thế nhà Đường (907), ông đã khôn khéo cho một phái bộ sang nhà Lương thần phục để giữ hoà bình với phương Bắc để tập trung vào việc nội trị, với mục tiêu cải thiện đời sống nhân dân và xây dựng một chế độ hành chính trung ương tập quyền - một hình thức mới nhất lúc bấy giờ.

Về cải cách hành chính, Khúc Hạo chia nước ta thành các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã đặt một chánh lệnh trưởng. Một số xã gần nhau, trước là hương, đổi là giáp. Mỗi giáp có một quản giáp và phó quản giáp trông coi mọi việc ở cấp mình.

Về kinh tế - xã hội, Khúc Hạo cho sửa lại chế độ điền tô, thuế và lực dịch nặng nề mà nhà Đường đã đặt ra để bóc lột vơ vét dân ta.

Về quốc phòng, ông chú ý bố phong, gìn giữ biên giới, lấy tình cảm để thu phục các hào trưởng miền biên ải và xây dựng lực lượng bảo vệ đô thành, phòng thủ đất nước.

Về chính trị, ông lấy khoan dung, giản dị, yên ổn và vui sống làm mục tiêu cai trị đất nước. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tiền biên - quyển 5, 15a, đã tóm gọn những cải cách của Khúc Hạo trong mấy chữ cô đọng như sau: "Bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp trông coi). Chính trị cốt chuộng khoan dung giản dị. Nhân dân đều được yên vui".

Quả thực, với một nước có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, người dân coi cái ăn là cốt tử thì được hưởng sự khoan dung, giản dị, yên ổn là hạnh phúc. Kế sách ấy đi vào lòng dân, được dân tri ân muôn đời. Mãi bốn trăm năm sau, nhà Trần vẫn phát triển thành chiến lược “Khoan thư sức dân để làm kế sâu bền rễ, đó là thượng sách giữ nước”.

Rõ ràng, công cuộc cải cách, cai quản đất nước, giữ nền tự chủ của họ Khúc đã mở ra một giai đoạn phát triển mới cho toàn xã hội mà các triều đại sau đó tiếp tục hoàn thiện. Chính vì thế, thời Khúc Hạo cai quản đất nước là một thời kỳ yên bình: việc chính trị khoan dung giản dị, dân yên vui chăm chỉ cấy cày.

Sau này, các sử gia coi Khúc Hạo là nhà cải cách đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Giáo sư Trần Quốc Vượng có một so sánh rất độc đáo: “Đi ngược dòng lịch sử ta thấy thế này: Thế kỷ thứ XX có Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh rồi sau này thập kỷ 80 là Nguyễn Văn Linh, Hồ Nghinh, Trường Chinh...Thế kỷ XIX có Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch...thất bại não nề và mất nước. Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV có Hồ Quý Ly, thất bại và mất nước. Đầu thế kỷ X có nhà cải cách Khúc Hạo, con dõi, nối quyền của Khúc Thừa Dụ. Vậy, theo dòng lịch sử, Khúc Hạo là nhà cải cách đầu tiên của thời quân chủ Việt Nam”.

Đầu năm 917, Lưu Cung lên ngôi hoàng đế Nam Hán, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ và Ngô Mẫn mang lễ vật sang mừng để kết tình bang giao. Lưu Mân nhận lễ vật và quốc thư. Nhưng cuối năm ấy, Khúc Hạo qua đời, Khúc Thừa Mỹ lên nối ngôi, giữ binh quyền cai quản đất nước. Biết Lưu Cung có tham vọng lớn, lại tráo trở, nên Khúc Thừa Mỹ đã có ý đề phòng. Ông phái tướng lĩnh tâm phúc lên vùng thượng du liên kết với các tù trưởng, các dân tộc tiểu số Tày Nùng, tổ chức thành những đội quân giỏi đánh trong rừng núi. Ông cho thành lập các đội thám báo, giỏi võ nghệ, hoặc giả làm người lái buôn hay người đi du thuyết, thâm nhập Nam Hán dò tin tức quân mã.

Năm Canh Dần (930), nhà Nam Hán đem quân tiến đánh nước ta bằng đường thuỷ và đường bộ. Thế giặc mạnh, Khúc Thừa Mỹ không chống cự được, đã bị bắt và sự nghiệp họ Khúc đến đây kết thúc, đất nước lại tiếp tục rơi vào tình trạng bị phương Bắc đô hộ lần thứ 2.

Ba đời họ Khúc liên tục kế nghiệp lãnh đạo nước ta, tuy thời gian nắm chính quyền chưa được 30 năm nhưng đã in dấu son trong lịch sử dân tộc. Đó là thời kỳ mở nền độc lập, tự chủ, với những cải cách lớn có giá trị bền vững trong quá trình dựng nước và giữ nước.

Sách, Lịch sử Việt Nam - thế kỷ X đầu thế kỷ XV, NXB Khoa học Xã hội, xuất bản năm 2002, có ghi: "Khúc Thừa Dụ, người Hồng Châu, ở làng Cúc Bồ - nay thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương".

Tại nhà thờ họ Khúc, xã Từ Lâm (Vĩnh Bảo - Hải Phòng), còn đôi câu đối ghi chép về đất tổ Cúc Bồ:

Cúc địa tự hưng trường sự nghiệp

Hồng thiên khởi chủ quảng dư đồ

Dịch nghĩa:

Đất Cúc Bồ nổi lên mà kéo dài sự nghiệp

Trời Hồng Châu dấy lên nền tự chủ (cho đất nước) để mở rộng giang sơn.

Chi họ Khúc ở Thụy Sơn, Thụy Phú (Thái Thụy - Thái Bình) còn cho biết: Các cụ xưa đi lánh nạn, xuôi theo sông Hoa đến tận bờ biển Thụy Anh và cư trú tại đó. Vì nhớ quê hương cũ, cho nên các cụ đặt tên cho làng là “làng Gọc”,

Riêng tại Cúc Bồ còn lưu giữ được nhiều tài liệu liên quan tới họ Khúc. Đặc biệt có đôi câu đối,

                       Cúc Bồ di tổ nghiệp

Hồng hạt dĩ tiên lai  

Dịch nghĩa: 

(Đất Cúc Bồ lưu giữ sự nghiệp tổ tiên, hạt Hồng Châu mở hướng tương lai con cháu).

Và một bài cổ thi nổi tiếng vẫn được lưu truyền trong nhân dân: 

"Tam tiên cơ tự chủ 

Vạn cổ Khúc linh từ 

Cúc Bồ lưu hiển tích 

Hồng hạt thử thiên thư" 

Dịch nghĩa: 

"Ba vị Chúa gây dựng nền tự chủ,

Đền thờ họ Khúc sẽ còn đến muôn thủa, 

Tại làng Cúc Bồ còn giữ được dấu tích, 

Đất Hồng Châu đã được ghi lại ở sách trời" 

Sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng liên quan đến di tích

Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Cúc Bồ có một quần thể di tích gồm: đình (thờ Thành hoàng Dương Quý Hiển và phối thờ Khúc Thừa Dụ); miếu (thờ Khúc Hạo), đền (thờ Khúc Thị Ngọc (Quỳnh Hoa công chúa) - con gái Khúc Thừa Dụ) và chùa (thờ phật). Trong bốn di tích này, hàng năm lễ hội đình Cúc Bồ được tổ chức lớn nhất, vào hai kỳ: lễ đình đám tháng giêng (âm lịch) và lễ kỷ niệm ngày mất của Khúc Thừa Dụ vào 23 tháng 7 (âm lịch). Kỳ lễ hội tháng giêng diễn ra trong 3 ngày (từ ngày 14 đến 16), ngay từ ngày 14, dân làng đã nô nức ra đình từ rất sớm làm các công việc chuẩn bị cho hội: bao sái đồ thờ, chồng kiệu, dọn dẹp đường “nghinh thỉnh” phong quang, sạch sẽ từ đình Cúc Bồ đến miếu thờ Khúc Hạo để tổ chức rước. Ngày 15 là trọng hội. Theo lệ, cứ ba năm một lần, các giáp Đông, Đoài Dương và Bắc lại thay nhau làm chủ tế. Lễ vật gồm có lợn, gà đã làm thịt và xôi, oản, quả các loại. Trong lễ tế, tiết mục đặc biệt nhất là đọc chúc văn, thường khi đến phần tên “Huý” của các vị thánh thì chiêng trống nổi lên rầm rộ để không cho người ngoài biết. Sau nghi thức tế lễ, theo sự hướng dẫn của các Hương lão, đoàn rước phân công đi theo trình tự: kỳ lân, sư tử đi trước, hương án, kiệu bát cống, kiệu long đình có tàn che. Kế đến là các vị chức sắc, quan viên, và cuối cùng là dân làng. Đoàn rước tiến bước theo nhịp trống, chiêng vang dội, lộ trình từ đình đến miếu thờ Khúc Hạo tổ chức lễ bái qua đêm, sáng ngày hôm sau mới rước về đình, tổ chức lễ tạ, kết thúc lễ hội. Cũng vào ngày 16, tại miếu thờ Khúc Hạo có tổ chức các trò chơi dân gian như: đấu võ, đấu vật, cờ tướng, chọi gà...thu hút cả những đô vật từ Hải Phòng, võ sĩ từ Thanh Hoá, Nghệ An về dự tạo nên một không khí náo nhiệt từ đình đến miếu. Kỳ lễ hội tháng 7 diễn ra trong một ngày là ngày 23 kỷ niệm ngày mất của người anh hùng Khúc Thừa Dụ. Nghi thức tế lễ do đội tế nam trong thôn Cúc Bồ đảm nhiệm, lễ vật do ba giáp Đông, Đoài Dương và Bắc chịu trách nhiệm sắm sửa gồm: lợn, xôi, hoa quả, trầu rượu... 

Tháng 01 năm 1950, thực dân Pháp ép dân làng phá dỡ đình, chùa, đền, miếu để xây dựng đồn bốt, nhân dân Cúc Bồ đã khéo léo vừa phá dỡ vừa bí mật chuyển cất dấu một phần kiến trúc và đồ thờ tự. Năm 1989, trùng tu đình Cúc Bồ trên cơ sở kế thừa kiến trúc miếu Cúc Bồ. Và, cũng trong năm này, lễ hội đình Các Bồ mới được phục dựng trở lại. 

Năm 2004, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hải Dương đã xây dựng đền thờ Khúc Thừa Dụ. Năm 2009, tổ chức khánh thành và đưa công trình vào khai thác sử dụng, nhân dân lấy ngày mất của Khúc Thừa Dụ (ngày 23 tháng 7 âm lịch), để tổ chức Lễ hội. Lễ hội do UBND huyện Ninh Giang chủ trì giao cho UBND xã Kiến Quốc đứng ra tổ chức long trọng với mục đích tri ân, nhớ ơn người xưa đã xây dựng nền độc lập tự chủ cho đất nước. Qua đó nhằm tuyên truyền, quảng bá sâu rộng về sự nghiệp của họ Khúc và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm đến với thế hệ trẻ hôm nay và mai sau; truyền thống đó sẽ tiếp tục được lan tỏa không chỉ với nhân dân trong xã, huyện, tỉnh mà còn với cả du khách thập phương vùng phụ cận và cả nước. Thời gian lễ hội diễn ra bắt đầu từ tối ngày 22 với nghi thức tế cáo yết, xin phép mở lễ hội do đoàn tế nam của thôn Cúc Bồ đảm nhiệm, sau đó là các tiết mục văn nghệ của nhân dân địa phương và nhà hát chèo Hải Dương biểu diễn. Sáng ngày 23, trước lễ tế và diễn văn khai mạc ôn lại công lao của các vị anh hùng họ Khúc là màn trống khai hội tạo nên không khí hào hùng, uy linh, hoành tráng. Buổi chiều tổ chức các trò chơi dân gian: chọi gà, cờ tướng, kéo co...Lễ hội đã thu hút đông đảo người tham dự từ trung ương, tỉnh, huyện, xã đến con cháu dòng họ Khúc gần, xa cùng nô nức trở về quê hương trong tình cảm chan hoà hướng về cội nguồn. 

Có thể nói, lễ hội đình Cúc Bồ xưa và đền thờ Khúc Thừa Dụ nay thực sự là một trong những lễ hội truyền thống tiêu biểu của xã Kiến Quốc nói riêng và của huyện Ninh Giang nói chung mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Có sự gắn kết giữa lễ hội đình vào dịp mùa xuân và lễ hội đền vào mùa hạ. Sự gắn kết giữa đình và đền không chỉ gắn kết về mặt địa lý mà còn gắn kết về giá trị nhân văn trong việc tổ chức lễ hội. Thông qua lễ hội, mọi người cùng nhau nhắc nhớ lại công lao đánh đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng nền độc lập tự chủ của các vị anh hùng họ Khúc, đồng thời nêu cao truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn, hướng tới mục đích giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc đối với các thế hệ ngày hôm nay, đặc biệt là thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. 

Kiến trúc di tích

Đền thờ Khúc Thừa Dụ được xây dựng trên khuôn viên đất cao, rộng và thoáng. Công trình được tôn tạo với bố cục và quy mô lớn, có diện tích 15.000m, ở phía trước và cách đình Cúc Bồ khoảng 4m về hướng Tây (nơi trước đây Khúc Thừa Dụ được phối thờ, di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia vào năm 1998) tạo thành quần thể kiến trúc hài hòa giữa đền nước - đình làng để tôn vinh tương xứng với vị thế và công lao của dòng họ Khúc trong lịch sử dân tộc.  

Đền thờ Khúc Thừa Dụ tọa lạc trên một khu đất rộng, thoáng, mặt tiền quay hướng Nam, nhìn ra sông Luộc là nơi lưu thuỷ, di tích có kiến trúc chữ Công (I), gồm các hạng mục công trình: 

- Nghi môn ngoại, chất liệu đá; 

- Cầu đá; 

- Giếng mắt rồng, chất liệu đá; 

- Nhà bia, chất liệu bê tông cốt thép, lợp ngói mũi. 

- Nghi môn nội và các mảng phù điêu bằng đá; 

Hai dãy giải vũ, mỗi dãy năm gian, kiểu chữ Nhất (-), chất liệu gỗ, mái lợp ngói mũi; 

- Đền thờ Khúc Thừa Dụ, kiểu chữ Công (I), chất liệu gỗ, mái lợp ngói mũi. 

- Nhà Ban quản lý, chất liệu bê tông cốt thép, mái đổ bê tông dán ngói mũi. 

- Công trình phụ. 

Đền thờ Khúc Thừa Dụ được xây dựng và tôn tạo chia làm năm giai đoạn. Giai đoạn 1, giải phóng mặt bằng, xây tường rào, nghi môn nội, bãi đỗ xe và móng đền chính. Giai đoạn 2, hoàn thiện đền chính, làm tượng danh nhân, thi công nhà tả vu, hữu vu và giếng mắt rồng. Giai đoạn 3, thi công nhà bia, phù điêu đá và nhà Ban quản lý. Giai đoạn 4, thi công nghi môn ngoại (tứ trụ), cầu đá, sân vườn. Giai đoạn 5, thi công tượng linh thú, kè hồ và các hạng mục còn lại. Tổng số tiền trong năm giai đoạn đầu tư gần 38 tỷ đồng, từ nguồn vốn của tỉnh, trung ương và các nguồn vốn huy động khác. Thời gian thực hiện và hoàn thành cho năm giai đoạn thi công từ 2004 - 2008. 

Hiện nay, đền thờ Khúc Thừa Dụ có khuôn viên rộng, tường bao khép kín, cảnh quan đẹp, kiến trúc hoành tráng, đồng bộ, mặt tiền quay hướng Nam, nhìn ra sông Luộc là nơi lưu thuỷ, còn chính điện cùng các hạng mục khác được bố cục đăng đối trên trục thần đạo theo hướng Bắc Nam là hướng của đế vương. 

Từ ngoài vào là nghi môn được làm kiểu tứ trụ (nghi môn ngoại), chất liệu bằng đá xanh, nằm ngay bên cạnh con đường cái quan của làng, trang trí hoa văn và con giống truyền thống. Phía sau nghi môn qua chiếc cầu đá bước tới khoảng sân dành cho các hoạt động vui chơi, còn gọi là sân hội. Trên sân hội, hồ sen được đặt vào vị trí trung tâm và giao thông được phân tuyến. Hai bên là giếng mắt rồng, hai nhà bia dạng phương đình tám mái và mười tượng linh thú cùng vẻ đẹp của hai bức phù điêu ghép bằng các mảng đá lớn với các hoạ tiết được chạm khắc công phu, mô tả quang cảnh nhân dân tụ nghĩa theo tiên chúa Khúc Thừa Dụ giành chính quyền tự chủ và cuộc sống thái bình, an cư lạc nghiệp, tổng hoà thành một không gian kiến trúc mang tính nghệ thuật giới thiệu lịch sử thế kỷ X và giáo dục truyền thống yêu nước. 

Tiếp đến là nghi môn nội ngăn cách giữa không gian tổ chức hội với không gian của các sự lệ, nghi lễ (sân lễ). Sân khá rộng, hai bên có nhà tả vu, hữu vu. Qua sân lễ là đền chính có kiến trúc kiểu chữ Công (I) gồm 5 gian tiền tế, 3 gian trung từ và 5 gian hậu cung. Toàn bộ ngôi đền được dựng trên nền bệ cao chín bậc có lan can và thềm bó đá xung quanh. 

Năm gian tiền tế bề thế, được xây dựng theo kiến trúc cổ truyền, các đầu đao ở các góc, bộ mái rộng chảy ra bốn phía nhưng không nặng nề mà ngược lại trông rất nhẹ nhàng, hài hòa, toát nên vẻ đẹp về mỹ thuật và kết cấu của công trình. Với lối cấu trúc bốn mái khiến cho quan sát từ hướng nào cũng như chính diện, mỗi mặt như một lưỡi rìu chém xuống, chắc chắn, dứt khoát mà không cứng nhắc gò theo hình học cơ bản. Trên cạnh bờ nóc và bờ giải, được gắn những đường gân và dải hoa chanh tạo sự mềm mại. Hai đầu bờ nóc tiền tế đắp lạc long, đầu đao các góc mái đắp rồng chầu phượng mớm. Hệ thống cửa chất liệu gỗ lim, được làm kiểu thượng song hạ bản, các mảng chạm khắc trên các bộ cửa theo đề tài tứ quí.

Kết cấu bộ khung vì chịu lực liên kết các cấu kiện và các bộ vì chia gian của di tích được làm chất liệu gỗ lim gồm 6 vì kèo, trong đó có 4 vì kèo chính và 2 vì kèo hạ khoảng tại gian dĩ. Các vì kèo này có kiến trúc giống nhau kiểu chồng rường. Các con rường được đặt trên các đấu vuông thót đáy, chạm lá lật và hoa sen. Kích thước cột cái và cột quân lớn được đặt trên chân đá tảng vuông thót đáy. Hoành, rui được bào nhẵn, lắp ghép cân đối, hài hoà. Bảy hiên chạm liên hoàn hai mặt tích long hý thủy, long hý ngư. Các bức chạm trên xà nách, đầu dư...đều mô phỏng theo phong cách nghệ thuật truyền thống thời hậu Lê khá đẹp.

Ba gian trung từ được nối với gian trung tâm toà tiền tế bởi hệ thống kẻ xối, gồm 4 bộ vì kèo được kiến tạo giống toà tiền tế. Hai bên tường hồi toà trung từ không xây gạch mà thay vào đó là hệ thống cửa bức bàn ghép kín, chính giữa là một bộ cửa kiểu thượng song hạ bản tạo thành lối ra, vào thông với lan can và hệ thống bậc cấp xuống sân vườn.

Năm gian hậu cung dàn ngang giống toà tiền tế và nối với gian trung từ ở chính giữa tạo cho di tích có bình đồ kiến trúc kiểu chữ Công (I). Ngăn cách giữa toà trung từ và hậu cung là một bức chạm thủng hổ phù và long quần rất sinh động ở chính giữa, hai bên là hai bộ cửa thượng song hạ bản. Khác với toà tiền tế và toà trung từ, phần mái toà hậu cung được kiến tạo chồng diêm cổ các, hai tầng tám mái nên trong lòng toà nhà này khá cao tạo ra độ sâu thẳm cho không gian thiêng - nơi đặt ba pho tượng thờ tiên chúa Khúc Thừa Dụ, trung chúa Khúc Hạo và hậu chúa Khúc Thừa Mỹ.

Phía sau đền là khu đất cao được tạo ra trông như quả núi (với ý nghĩa gối sơn đạp thủy) và một số loại cây ăn quả lâu năm truyền thống của địa phương như vải, nhãn...Ngoài ra, còn trồng thêm các cây cổ thụ như đa, bồ đề...khoảng vườn này sẽ là một điểm dừng chân lý tưởng cho du khách thập phương khi đến thăm khu di tích, đồng thời làm điểm tựa, chỗ dựa vững chắc về mặt bố cục và không gian đệm, ngăn cách với khu dân cư tạo cho khu di tích một không gian linh thiêng.

Đền thờ Khúc Thừa Dụ là một công trình văn hoá được xây dựng để tưởng niệm, tôn vinh người có công xây dựng nền độc lập của dân tộc vào thế kỷ X của dòng họ Khúc tại quê hương Cúc Bồ. Nơi đây đã tìm thấy những viên gạch có khắc chữ Khúc Miếu - để minh chứng cho việc thờ tự đã có từ rất sớm.

Di tích được xây dựng tại vị trí trung tâm của xã, cạnh đình Cúc Bồ, các công trình trong tổng thể không gian di tích được làm chất liệu gỗ tứ thiết và hệ thống phù điêu bằng đá xanh tạo thành quần thể hài hòa, không đơn điệu và tuân thủ theo lối kiến trúc truyền thống, từ đó tăng thêm sự uy nghi, bề thế và vẻ uy linh ho di tích.

Lễ hội truyền thống hàng năm có sự gắn kết giữa đình và đền, nhằm tăng thêm tính bền vững, tinh thần đoàn kết của cộng đồng nhân dân nơi đây, nhằm khơi dậy lòng tự hào, tinh thần tự tôn dân tộc, giáo dục truyền thống yêu nước; tiếp tục bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá phi vật thể tại địa phương cho các thế kê tiếp; coi đây là thiết chế văn hóa, điểm du lịch tâm linh của tỉnh Hải Dương để khai thác và phát huy một cách hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.

II. DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA ĐÌNH CÚC BỒ, XÃ KIẾN QUỐC

Nằm trên dải đất phù xa cổ ven sông Luộc (nối liền Sông Hồng và Sông Thái Bình), Cúc Bồ là một làng (trang trại) được hình thành khá sớm trong lịch sử. Đây chính là quê hương của nhóm cư dân - làng nghề làm đình nổi tiếng từ lâu đời của xứ Đông.

Căn cứ vào kết quả khảo sát dân tộc học, Cúc Bồ xưa có tên nôm là làng Gọc. Tại đây từng có Gọc bến (bến sông cổ) và Gọc chợ (nay là thôn Cúc thị). Đất Cúc Bồ khá mầu mỡ, có những bãi cói, hoa cúc và hoa Bồ mọc tự nhiên ven sông - Những loài cây thích hợp với thổ nhưỡng vùng nước lợ. Có thể do một sự biến thiên xã hội nào đó của địa phương, tên loài hoa đã trở thành tên của vùng đất Cúc Bồ ngày nay (?)

Di tích được khởi dựng từ khá sớm, theo hướng Nam trên khu đất cao ráo, bằng phẳng; cách đê Sông Luộc gần 1km. Trong quá trình sản xuất tại đây nhân đã phát hiện được nhiều di vật khảo cổ như: Gạch mộ Hán, quách mộ Cũi và nhiều phế tích gốm cổ của những thế kỷ đầu công nguyên.

Trải qua các biến cố tự nhiên và xã hội, nhiều di tích lịch sử của quê hương Kiến Quốc đã không tránh được sự xuống cấp, thậm chí bị giải hạ hoàn toàn. Hiện tại ngoài đình Cúc Bồ, địa phương chỉ còn có chùa Ngọc Chỉ với một số cổ vật như: Tượng phật, chuông đồng, được nhân dân tích cực bảo quản.

Qua nghiên cứu khảo sát di tích, đình Cúc Bồ là nơi thờ vọng Khúc Thừa Dụ, danh nhân dân tộc thế kỷ 10 và Dương Quý Hiển, võ tướng thời Lý từng có công đánh thắng quân xâm lược nhà Tống (1075). Trong thời kỳ lịch sử cận hiện đại, di tích từng là nơi diễn ra nhiều sự kiện. Ngày nay, Khúc Thừa Dụ được thờ tại ngôi đền, nằm sát cạnh đình Cúc Bồ.

Theo sự tích tại địa phương thì Dương Quý Hiển là một tướng của Lý Thường Kiệt đã hy sinh anh dũng tại Khâm Châu năm 1075 trong cuộc tấn công vào căn cứ của địch để tự về, ngăn chặn bước tiến xâm lược của quân Tống. Được tin chồng tử trận bà vợ ở nhà đã nhảy xuống sông Cúc Bồ (Sông Luộc) tự vẫn. Sau khi bà Dương Quý Hiển mất, dân làng suy tôn làm thành hoàng được các triều đại phong sắc. Nay ở đình làng còn câu đối ca ngợi công đức vợ chồng ông:

- Vị Nam thiên tranh tự do quyền, tinh vẫn Khâm Châu anh khi đại.

- Chỉ Bắc địa thệ tùy nhất trí, nguyệt trầm Cúc Thủy nộ đào sinh.

Nghĩa là:

- Vì trời Nam giành quyền tự do, tuy đã hy sinh ở Khâm Châu nhưng chỉ khi anh hùng vẫn còn.

- Chỉ đất Bắc thề một lòng thác theo chồng, nay nàng chẫm mình ở Các Thủy sóng giận giữ trào dâng (1)

Cũng như nhiều làng quê Việt Nam, việc thờ tự người có công với nước với dân như Khúc Thừa Dụ, Dương Quý Hiển tại Cúc Bồ được hình thành từ rất sớm. Song, ngôi đình được khởi dựng vào năm nào hiện nay chưa có tài liệu nào xác định cụ thể ?

Căn cứ vào tư liệu khảo sát bước đầu, làng Cúc Bồ - Kiến Quốc có nghề mộc làm đình nổi tiếng các đây 200 năm. Người có công tạo dựng làng thợ là cụ Bùi Đình Chiến đỗ tiến sĩ năm Mậu Dần (1758) là người địa phương được Triều đình đương thời phong tước: Phó sứ viện Hàn lâm đồng tri phủ trấn Sơn Nam. Khi còn làm quan cụ đã tìm thợ ở Nam Sang (Lý Nhân - Hà Nam) về dựng cho làng ngôi đình" Công việc hoàn tất thì tình duyên nẩy nở có hai anh em thợ họ Trần lấy vợ Cúc Bồ xin gia nhập làng và trở thành những người thợ đầu tiên của làng nghề Cúc Bồ.

Truyền thuyết của địa phương còn cho biết: Cúc Bồ xưa có những bãi cói bát ngát ven sông; các bậc phú ông trong làng từng thách thức trai tráng: anh nào chạy một mạch từ Quán đá đầu làng đến bến Gọc thì mất không con gái cho, nhưng không ai thắng cuộc. Song một thời (cách đây khoảng 100 năm) sông Luộc đổi dòng, con nước xoáy trôi đất bờ bên tả sát vào tới đình Cúc Bồ dồn chuyển sang địa phận Hưng Hà (Thái Bình). Do vậy, các già làng đã quyết định huy động trai tráng thợ thuyền di chuyển đình vào trong làng như vị trí ngày nay. Công việc tu bổ, cất dựng diễn ra hàng năm mới hoàn thành.

Trải qua năm tháng và chiến tranh, ngôi đình đã được tu bổ, tôn tạo nhiều lần. Kiến trúc hiện còn về cơ bản thuộc lần trùng tu cuối cùng vào năm "Duy Tân, Tân Hợi, trọng xuân nguyệt trùng tu" (Đình trùng tu vào tháng 2 mùa xuân năm Tân Hợi niên hiệu Duy Tân), tức năm 1911. Công trình xưa kết cấu theo kiểu chữ "Công"(J) gồm 7 gian Đại bái, 2 gian Trung từ và 3 gian Hậu cung bằng chất liệu gỗ lim, điêu khắc "Tứ linh", "Tứ quý"... truyền thống.

Song chính thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), do phong trào cách mạng của địa phương phát triển mạnh (2) nên sau khi chiếm đóng Ninh Giang (10/1949) quân giặc đã tổ chức nhiều đợt càn quét khốc liệt nhằm triệt phá cơ sở kháng chiến. Tháng 1 năm 1950 quân Pháp ép dân làng phá dỡ đình, chùa miếu để lấy vật liệu xây dựng bốt. Trước tình hình đó, được sự chỉ đạo của Ủy ban hành chính kháng chiến huyện, nhân dân thôn Cúc Bồ đã khéo léo vừa phá dỡ vừa bí mật vận chuyển cất giấu một phần kiến trúc và đồ thờ tự đến địa điểm xóm Trung cùng thôn bảo quản. Đến cuối năm 1952 lực lượng du kích của ta cải trang (đàn bà đi chợ) bất ngờ tiến công thắng lợi, xóa bỏ bốt giặc tại địa phương.

Sau hòa bình lập lại (1954) nhân dân địa phương tiếp tục khôi phục một phần di tích để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng. Công trình mang tính chất tạm thời.

Tiếp đến các năm 1955 - 1963 khu vực đình trở thành kho lương thực, thực phẩm và kho vật tư phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp của huyện Ninh Giang. Và từ năm 1964 đến 1988 là nơi hoạt động của nhà trẻ và sân kho hợp tác xã nông nghiệp địa phương.

Đầu năm 1989, được sự chỉ đạo của Sở Văn hóa thông tin, Bảo tàng tỉnh Hải Hưng (nay là Hải Dương) chính quyền địa phương đã động viên toàn thể nhân dân tổ chức trùng tu đình theo kiểu chữ Đinh trên cơ sở kế thừa kiến trúc miếu Cúc Bồ tạo thành di tích như ngày nay.

Là một miền quê được hình thành sớm, nhân dân Cúc Bồ có những phong tục tập quán tốt gắn liền với di tích và lễ hội.

Hàng năm, từ ngày 14 - 16 tháng giêng nhân dân Cúc Bồ lại tổ chức lễ hội truyền thống tưởng niệm những anh hùng dân tộc. Vào dịp này, cháu con xa gần nô nức trở về quê hương trong tình cảm chan hòa hướng về cội nguồn. Lịch trình được tiến hành như sau:

Ngày 14 tháng Giêng, dân làng từ già, trẻ, trai, gái kéo nhau ra đình từ rất sớm để làm các việc chuẩn bị mở hội gồm có: Bao sái đồ tế tự, dựng cờ, quét dọn đường "Nghinh thỉnh" từ đình đến miếu để tổ chức rước.

Ngày 15 tháng Giêng là Lễ trọng. Theo lệ cũ cứ ba năm một lần, các giáp Đông, Đoài Dương và Bắc thay nhau là chủ tế. Lễ vật gồm có lợn, gà đã thịt và xôi oản, hoa, quả các loại. Theo sự hướng dẫn của các Hương lão, mọi người phân công nhau đi thành đoàn theo trình tự: Kỳ lân sư tử đi trước, kiệu Hương án tiếp theo. Kiểu bát cống hiệu Long đình có tàn che lần lượt tiến bước theo nhịp chiêng trống vang dội. Đoàn người đến miếu dừng lại tổ chức lễ bái qua đêm. Sáng ngày hôm sau mới tổ chức rước về đình.

Trong lễ tế, tiết mục đặc biệt là: "Độc chúc văn"; Thường khi đến phần tên "Húy" thì theo có lệ chiêng trống nổi nên rầm rộ để không cho người ngoài biết. Ngoài ra hàng ngày trong cuộc sống giao tiếp, nhân dân địa phương thực hiện kiêng nói, kiêng đặt tên liên quan tới "Húy" của thánh.

Ngày 17 tháng Giêng tổ chức Tạ và đóng chửa đình kết thúc mùa Hội làng.

Cuối cùng là vào ngày 23/7 Âm lịch hàng năm nhân dân địa phương tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm ngày mất của Khúc Thừa Dụ.

Nằm giữa làng quê trù mật, đông đúc; đình Cúc Bồ là một công trình kiến trúc khá cổ kính, từ nhiều thế kỷ qua là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng hấp dẫn của nhân dân xã Kiến Quốc cũng như các làng xã phụ cận trong vùng.

Xa xa nhìn về phía trước đình là một cây Gạo cổ thụ tỏa bóng xuống khu ao Rối khá rộng. Tiếp đến là những con đường làng như từng dải lụa uốn khúc bao bọc khu dân cư.

Đình tọa lạc trên một gò đất cao do được đào đắp qua những lần trùng tu. Tương truyền địa phương cho rằng: Đình Cúc Bồ được đặt trên thế lưng "Con Nhện" nên làng "Đa đinh" truyền đời con cháu theo cha ông đi làm

nghề mộc dựng cất đình, chùa, miếu mạo khắp nơi trong cả nước, gái làng rất tần tảo đảm đang.

Trong khoảng không gian được xác định, công trình đình Cúc Bồ kiến trúc theo kiểu chữ Đinh gồm có 5 gian Đại bái và 3 gian Hậu cung. Di tích xây dựng theo hướng Nam nhìn về sông Luộc.

Từ ngoài vào là vườn hoa cảnh khuôn viên góp phần tôn thêm vẻ đẹp tổng thể của nhà Đại bái. Tại hai cột đồng trụ phía trước có đôi câu đối:

"- Vị Nam thiên tranh tự do quyền, tinh vẫn Khâm Châu oanh khổ tại .

 - Chỉ Bắc địa thệ tòng nhất trí, nguyệt trầm Cúc Thủy nộ đào sinh.

Nghĩa là:

- Vị trời Nam tranh quyền tự do sao bằng chốn Châu Khâm, còn hào hùng chí khí.

- Cho đất Bắc thề một lòng quyết chí, trăng chìm sông Cúc, lòng trung hâu luyện nên người.

Nhà Đại bái gồm 5 gian xây kiểu bít đốc, đắp chỉ bổ trụ đấu. Hai gian đầu hồi xây cuốn cót gắn cửa sổ chữ "Thọ" - Biểu tượng trường sinh, thể hiện ý nghĩa cầu chúc cho mọi người đều khỏe mạnh, sống lâu. Mái nhà lợp ngói mũi truyền thống. Đầu kìm đắp nổi hình Lạc Long ngậm bờ nóc, chính giữa là một cuốn thư đề ba chữ Hán "Thiên cổ tại" với ẩn ý sâu xa: Tại đây từ ngàn xưa từng rạng danh cơ đồ họ Khúc.

Toàn bộ kiến trúc trụ trên 12 cột cái, 12 cột quân và 6 cột hiên với chất liệu gỗ lim tròn vững chắc. Kết cấu vì chính theo kiểu "Giá chiêng, lòng thuyền" bao gồm: Con cung, con thuận, trụ đầu, câu đầu, xà nách và đầu bẩy. Các chi tiết kiến trúc được gắn chặt bằng hệ thống mộng thắt đầu cột, xà. Trên cơ sở đó, lòng nhà được mở rộng theo công thức: "Thượng tứ, hạ ngũ" cổ truyền. Liên kết 5 gian 6 vì là hệ thống hoành, rui, lá giớ, xà dọc trên dưới bào soi vỏ măng. Cuối cùng là hệ thống cửa kiểu "Thượng sơ, hạ mật", khép kín ba gian chính Đại bái.

Để công trình được tôn nghiêm, các nghệ nhân dân gian xưa đã sử dụng kỹ thuật chạm khắc bong kênh, chạm lộng các hình tượng "Tứ linh" tại các mảng cốn gian trung tâm với các tư thế khác nhau. Song yếu tố con người bao giờ cũng gắn bó với thiên nhiên nên các hình tượng "Tứ linh" ở

đây thường được điểm xuyết cỏ cây, hoa lá, sóng nước, chim thú hoặc đổi khi "hóa thân" trở về với thiên nhiên như hình ảnh: Tùng, cúc, trúc, mai "Hóa rồng" thật đẹp mắt. Đây là một nét đẹp văn hóa phương Đông kết tinh trong kiến trúc nghệ thuật của di tích.

Nối liền gian giữa Đại bái về phía sau là Hậu cung gồm 2 vì 3 gian xây bít đốc. Kết cấu kiến trúc theo kiểu "Giá chiêng, lòng thuyền" bào trơn, đóng bản, không chạm gì đặc biệt. Tại đây do khoảng gian giữa Đại bái lớn nên lòng nhà theo công thức "Thượng ngũ, hạ tứ".Nhờ vậy không gian thờ tự Hậu cung mở rộng, thuận lợi trong việc sinh hoạt tín n gưỡng. Tại các khung xà cột có một số câu đối bức châm với nội dung như sau:

1- Thiên trụ nãi tôn cẩn nhi lục viên nhi giang, tả hữu vãng lai chiếm khởi kinh.

- Địa dư dĩ lập cao sở phủ hậu sơ tái Á, Âu phong vũ dịch lan ma. Nghĩa là:

- Trụ trời tôn sùng kính cẩn, khách từ xa, tả hữu bên sông vãng lai đến cung kính.

- Đất công đã dựng, đình nguy nga cao rộng, Á, Âu mưa gió mãi thấm nhuần.

2- Khúc cộng hủy Cách, Hồng Châu hào trường tự xưng An Nam tiết độ sử, dân kinh tôn quang chúa (chủ) Bắc triều tiền phong Tĩnh Hải tiết độ sử, hậu phong đồng bình chương sự.

Lý triều, Trần triều,, Lê triều, Nguyễn triều giai phong Cúc Bồ xã bản cảnh thành hoàng thưởng đẳng phúc thần.

Khúc Công hủy Hiển kế thừa tiên hiền Tiết độ sứ dân kính tôn trung chúa (chủ). Lý triều, Trần triều. Lê triều, Nguyễn triều giai phong Cúc Bồ xã bản cảnh thành hoàng thượng đẳng phúc thần.

Khúc Công hủy Mỹ kế thừa tiến nhân sự nghiệp tự xưng Tiết độ sứ. Lý triều, Trần triều, Lê triều, Nguyễn triều ký tạc công ấn trung tôn anh thanh bảo quốc chi thần.

Nghĩa là:

Khúc công hủy tên là Cách, từng là Hào trưởng đất Hồng Châu tự xưng là An Nam tiết độ sứ, được nhân dân kính trọng và tôn làm "Quang chủ Bắc triều". Trước phong là Tĩnh Hải tiết độ sứ, sau phong là "Đồng bình chương sự". Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê. Nguyễn đều được phong là: "Bản cảnh thành hoàng Thượng đẳng phúc thần" ở xã Cúc Bồ

Khúc công hủy tên là Hiển (Hạo) kế tiếp đời các bậc tiên hiến giữ chức "Tiết độ sứ" được dân kính trọng tôn làm Trung chúa (chủ). Các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều được phong là "Bản cảnh thành hoàng Thượng đặng phúc thần" ở xã Cúc Bồ.

Khúc công tên húy là Mỹ, kế tiếp sự nghiệp các bậc tiền nhân tự xưng là Tiết độ sứ. Trải qua các triều Lý Trần Lê, Nguyễn đều được ghi tạc công lao. Công ơn được truy tôn là "Anh thanh bảo quốc chi thần" (Bậc thần trung sáng thanh liêm có công bảo vệ đất nước"

Bài trí thờ tự Hậu cung hiện có 1 khám chính thờ Khúc Thừa Dụ và 4 cỗ ngai thờ Dương Quý Hiển và các vị bách thần bản xã khác. Điều đáng tiếc các bài vị đều bị mờ hết nội dung nên việc xác định người được thờ đều theo tượng truyền.

Với cách bố cục kiến trúc cân đối, hài hòa, đình Cúc Bồ đã được các nghệ nhân dân gian thực hiện khá thành công về kiến trúc nghệ thuật truyền thống. Đây là công trình văn hóa xứng đáng được bảo vệ lâu dài./.

III. DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA CẤP TỈNH CHÙA NGỌC CHI, XÃ KIẾN QUỐC

Chùa Ngọc Chi (Phúc Khánh tự) là di tích lịch sử - văn hoá thuộc thôn Ngọc Chi, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Chùa nằm tại thôn Ngọc Chi, nên nhân dân gọi tên di tích theo địa danh. Ngoài ra, chùa còn được gọi theo tên tự là “Phúc Khánh tự” tức chùa Phúc Khánh với ý nghĩa chùa có nhiều điều tốt lành, chúc thọ và niềm vui.

Di tích nằm tại cuối thôn Ngọc Chi, mặt tiền quay về hướng Tây Nam, nhìn ra ao chùa. Phía Đông giáp đường và khu dân cư; phía Bắc giáp khu dân cư.

Di tích toạ lạc trên một khu đất cao ráo, thoáng rộng và có hướng phát triển trong tương lai.

* Vài nét về lịch sử làng xã:

Thời Lý - Trần, Ninh Giang gọi là huyện Vĩnh Lại thuộc phủ Hạ Hồng. Năm 1800 có 11 tổng, 107 xã (thôn). Năm Minh Mạng 19 (1838), cắt ba tổng: Đông Am, Ngải Am, Thượng Am cùng một số xã ở Tứ Kỳ thành lập huyện Vĩnh Bảo. Cắt các xã Phù Tải từ huyện Thanh Miện và các tổng Thượng Am, Cổ Am, Đông Am từ huyện Vĩnh Bảo sáp nhập vào huyện Vĩnh Lại. Năm 1900 có 8 tổng, 74 xã, 41.080 nhân khẩu. Năm 1925 phủ Ninh Giang gồm 8 tổng với 74 xã.

Vào đầu thế kỷ XIX, Ngọc Chi là một xã thuộc tổng Bồ Dương, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, trấn Hải Dương. Tổng Bồ Dương gồm 7 xã: An Cúc, Bồ Dương, Cúc Bồ, Động Trạch, Lũng Quý, Quang Dực và Ngọc Chi.

Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thực hiện sắc lệnh của Chính phủ cách mạng lâm thời về việc bỏ đơn vị hành chính cấp làng (xã), tổng và phủ để thành lập xã mới. Tháng 2 năm 1946, thôn Ngọc Chi sáp nhập với thôn An Cúc thành một xã mới, lấy tên là xã Ngọc Cúc. Thôn Cúc Thị sáp nhập với thôn Lũng Quý thành một xã, lấy tên là xã Tân Mỹ.

Tháng 3 năm 1948, để đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ của cuộc kháng chiến và thực hiện Quyết định của Uỷ ban KC- HC tỉnh Hải Dương, ba xã: Ngọc Cúc, Tân Mỹ và Cúc Bồ hợp nhất với nhau thành một xã, lấy tên là xã Kiến Quốc. Xã Kiến Quốc gồm 5 thôn: Ngọc Chi, An Cúc, Lũng Quý, Cúc Thị và Cúc Bồ.

Tháng 4 năm 1979, huyện Ninh Giang và huyện Thanh Miện hợp nhất thành huyện Ninh Thanh, xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng.

Tháng 4 năm 1996, huyện Ninh Thanh chia tách và tái lập huyện Ninh Giang và Thanh Miện, xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương và tồn tại đến ngày nay.

Thôn Ngọc Chi và An Cúc: xưa là một làng gọi là Ngọc Điều Trang (Trang Ngọc Điều), có tên nôm là làng Dèo, cùng có chung một ngôi đình. Hiện nay, ngôi đình đã bị hạ giải, chưa khôi phục lại được. Thôn Ngọc Chỉ có chùa Ngọc Chi.

Chùa Ngọc Chi là nơi thờ Phật theo Thiền phái Đại Thừa, một thiền phái phổ biến tại các ngôi chùa ở miền Bắc Việt Nam.

Theo dòng lịch sử, tại chùa có cụ sư Nhân trụ trì. Cụ sư Nhân quê ở thôn Bồ Dương, xã Hồng Phong, sau khi mất được nhân dân mai táng. Hiện nay, tại chùa có lăng mộ của cụ.

Căn cứ vào kết quả khảo sát, điền dã, nghiên cứu, căn cứ vào quy mô kiến trúc và hệ thống bia ký, câu đối, đại tự hiện lưu giữ tại di tích và lưu truyền trong nhân dân cho biết: thì chùa Ngọc Chi được khởi dựng từ khá sớm. Trùng tu vào thời Lê và thời Nguyễn, công trình hiện nay là kết quả của lần đại trùng tu vào năm 1920. Tương truyền, chùa nằm trên trán rồng, hai mắt rồng là hai giếng chùa (giếng hiện nay vẫn còn).

Công trình chính có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền đường và 2 gian hậu cung. Đằng sau chùa (cách chùa khoảng 100m) là miếu Ngọc Chi. (Miếu Ngọc Chi tôn thờ Thành hoàng làng là Hồng Tế Cự Lân Đô Đại Vương có công âm phù vua Lý đánh giặc Tống. Miếu có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền tế và 1 gian hậu cung, chất liệu chủ yếu bằng gỗ lim. Năm 1972, miếu được chuyển về làm trụ sở của Văn phòng Đảng uỷ xã cho đến nay).

Phía Tây chùa có 5 gian nhà tổ, chất liệu bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi. Phía trước là tam quan uy nghi.

Năm 1952, 5 gian nhà tổ và tam quan bị giải hạ để lấy gạch xây sân kho hợp tác xã.

Năm 1995, chính quyền và nhân dân địa phương khôi phục nhà tổ với quy mô nhỏ hơn gồm 3 gian, chất liệu gạch, kiến trúc vì gác tường đơn giản, mái lợp ngói ta và quay hướng Tây. Cũng năm năm này, nhân dân xây dựng cầu đi vào di tích, tuy nhỏ nhưng tạo cho không gian di tích thêm đẹp hơn.

Năm 2001, xây dựng cổng. Khuôn viên di tích hiện nay khá khang trang.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tại chùa đã diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của địa phương:

- Dưới nền hậu cung là hầm bí mật nuôi dấu cán bộ và du kích của xã. Là địa điểm học tập và huấn luyện của trường Quân chính của Đệ tử chiến khu Đông Triều chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ở Ninh Giang vào ngày 18 tháng 8 năm 1945 và thành lập chính quyền cách mạng - Là nơi tổ chức các cuộc họp của chi bộ Đảng địa phương.

- Là nơi sơ tán của Công binh xưởng, Viện Quân y của tỉnh và Quân khu 3 trong an toàn khu Hải Dương.

- Là nơi tập trung tiễn tân binh lên đường nhập ngũ.

Phong tục lễ hội:

Cũng như những ngôi chùa ở miền Bắc, chùa Ngọc Chi cũng có đầy đủ các lễ tiết trong năm.

- Ngày 15 tháng giêng lễ thượng nguyên.

- Ngày mồng 3 tháng 3 giỗ Mẫu.Trong ngày này, chùa mở hội lớn và có tổ chức tế lễ.

- Mồng 8 tháng 4 ngày Phật đản.

- Ngày 15 tháng 7 lễ Vu lan (lễ xá tội vong nhân).

Ngoài ra, vào những ngày tuần tiết tại chùa vẫn tổ chức các buổi lễ cúng Phật cầu cho dân nhân được no ấm, an lành.

Từ ngoài nhìn vào, chùa Ngọc Chi có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền đường và 2 gian hậu cung, xây bít đốc nối liền nhau tạo thành không gian thờ tự khép kín. Mặt tiền quay về hướng Tây Nam. Công trình hiện nay là kết quả của lần đại trùng tu vào năm 1920.

Ba gian tiền đường dài 9,8m, rộng 5,95m, chất liệu bằng gỗ lim bao gồm 4 vì kèo. Bốn vì kèo này được kiến tạo giống nhau kiểu con chồng giá chiêng, chất liệu mộc bằng gỗ lim còn khá tốt, cột cái có đường kính 0.28m, cao 4.0m, cột quân có đường kính 0.23m, cao 2.97m.

Tại hai vì nách gian trung tâm có hai bức chạm liên hoàn cả hai mặt thay thế cho hệ thống các con thuận, tạo cho không gian kiến trúc thêm sống động. Một bức một mặt chạm mai hoá long, ở giữa là cuốn thư với các chữ Hán: “Hoa khai Ưu Bát chi,Quả kết Bồ Đề thụ” nghĩa là Cành nở hoa Bát Nhã, Cây kết quả Bồ Đề, một mặt chạm lá hoa long; một bức một mặt chạm cúc hoá long, ở giữa là cuốn thư với các chữ Hán: “Hoa khai Ưu Bát chi, Quả kết Bồ Đề thự” nghĩa là Cành nở hoa Bát Nhã, Cây kết quả Bồ Đề, một mặt chạm lá hoá long.

Các vì kèo là hệ thống giằng ngang của toàn bộ công trình. Mỗi vì kèo bao gồm các chi tiết: Bẩy hiên, cột quân, xà nách, con thuận 1 khoảng, 2 khoảng, 3 khoảng, cột cái, câu đầu, trụ đấu...đều được các nghệ nhân tạo dựng kỹ càng, hệ thống các mang mộng bén khít, không bị xô lệch. Ngoài hệ thống giằng ngang, hệ thống tiền đường còn có hệ thống giằng dọc, liên kết các vì kèo, đó là hệ thống tàu, lá mái, xà thượng, xà hạ, gộp mái...Đặc biệt, hệ thống hoàng được bài trí theo lối “thượng tứ, hạ ngũ” khá chắc chắn. Các hoành vuông được soi chỉ bào nhẵn, các hoành tròn được tạo dáng thon đều. Thượng lương chắc khoẻ.

Toà tiền đường chùa Ngọc Chi còn lưu giữ nhiều mảng chạm khắc đạt trình độ nghệ thuật cao, mang đậm nét kiến trúc truyền thống, thể hiện sự tài hoa của nghệ nhân xưa. Trên các bẩy hiện và xà nách, con thuận 1 khoảng, 2 khoảng, 3 khoảng chạm lá hoa long, lá lật. Nét chạm mềm mại mô tả được ý chủ đạo của đề tài.

Phần nề ngoã: Móng, tường xây bằng gạch chỉ, các chân cột kê bằng đá tảng, mái lợp ngói mũi truyền thống. Bờ nóc được đắp biển tự với ba chữ Hán mang tên tự của chùa là “Phúc Khánh tự”. Bờ cánh mềm mại, Tại đây, có các trụ đấu tượng trưng cho ba thời của nhà Phật: Quá khứ, hiện tại, vị lai.

Hai gian hậu cung dài 6.0m, rộng 5.85m gồm ba vì kèo. Vì thứ nhất và vì thứ hai có kiến trúc giống nhau kiểu giá chiêng. Riêng vì kèo thứ ba do bị xuống cấp nặng nên nhân dân địa phương đã thay thế bằng một thanh kẻ chuyền nối từ hai đầu cột quân đến thượng lương. Móng, tường xây bằng gạch chỉ, mái lợp ngói mũi.

* Bài trí thờ tự:

Hậu cung chùa Ngọc Chi hiện nay có 5 lớp tượng thờ:

- Lớp tượng thứ nhất (từ trên xuống): Gồm ba pho Tượng Tam Thế. Chính giữa là Tam Thế hiện tại, bên trái là tượng Tam Thế Quá khứ và bên phải là tượng Tam Thế Vị lai. Ba pho tượng này được tạc cùng một phong cách và có kích thước giống nhau, được tạc ở tư thế toạ thiền trên đài sen, hai chân ngồi khoanh tròn, bàn chân phải đặt ngửa lên lòng đùi bên trái, hai bàn tay lồng vào nhau, hai ngón tay cái chạm vào nhau, thân hình cân đối, mắt nhắm, tai dài.

- Lớp tượng thứ hai: Gồm ba pho tượng, chính giữa là tượng A Di Đà. Tượng A Di Đà được tạc ở tư thế ngồi trên đài sen, đài sen sơn màu đỏ. Hai bàn chân khoanh tròn, bàn chân phải dài đặt ngửa lên lòng đùi bên trái, tay phải để ngửa lên đùi phải, ngón cái và ngón út duỗi thẳng, hai ngón giữa gập vào lòng bàn tay, tay trái đặt ngửa lên lòng bàn chân phải, ngón cái và ngón thứ hai chạm vào nhau. Thân hình cân đối, sống mũi cao, mắt nhắm, tai dài. Đây là một pho tượng có kích thước lớn của chùa. Hai bên là tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí.

- Lớp tượng thứ ba: Gồm ba pho tượng, chính giữa là tượng Quan Âm chuẩn đề, được tạc ở tư thế toạ thiền ngồi trên đài sen, có nhiều đôi tay đỗi xứng nhau. Hai bên là tượng Quan Âm tống tử và Thánh Hiền.

- Lớp tượng thứ tư: Gồm 03 pho, chính giữa là tượng Ngọc Hoàng, bên trái là tượng thần Nam Tào và bên phải là tượng thần Bắc Đẩu. Các pho tượng này đều được tạc ở tư thế ngồi trên bệ giật cấp, hai chân đi hia, mặc áo long bào và quan triều, sơn son thếp vàng, đầu đội mũ, râu đen dài, nét mặt nghiêm trang.

- Lớp tượng thứ năm: Toà Cửu long. Toà Cửu long được tạo hình nghệ thuật thành nhiều lớp tượng thờ khá sinh động. Giữa toà Cửu long có tượng Thích Ca sơ sinh tạo hình một bé trai (hài nhi) đứng trên toà sen, 9 con rồng vây bọc chầu vào trên đầu và ba mặt sau lưng ngài, trên những đám mây có đủ chư Phật, chư thiên, thiên nữ, nhã nhạc, cờ phướn và bát bộ kim cương.

Tại toà tiền đường được bài trí một số pho tượng:

- Nhóm tượng gian bên trái gồm tượng Đức Ông. Tượng Đức ông được tạc ở tư thế ngồi trên bệ giật cấp, hai chân mở rộng bằng vai, đi hia mũi cong. Tay phải cầm quạt đặt lên đầu gối phải, bàn tay trái đặt úp lên đầu gối trái, các móng tay dài, sơn màu bạc. Cổ cao, mặt nghiêm trang, râu đen, dài. Hai vai tròn, thân hình cân đối. Tượng mặc áo quan, hai đầu gối và hai vai có đôi rồng chầu, bụng chạm long mã, ngực chạm hổ phù, hai ống tay áo dài vắt sang hai bên đùi. Đầu đội mũ cánh chuồn, trước trán có một mặt nguyệt màu vàng, ngực thắt đai. Phía trước tượng Đức Ông tượng Quan Văn và Quan Võ. Hai pho tượng này có kích thước nhỏ.

- Nhóm tượng gian bên phải là tượng Mẫu, phía trước tượng Mẫu có hai pho tượng hầu, kích thước nhỏ.

Ngoài ra, tại góc hồi bên trái và bên phải của tiền đường có hai ban thờ. Bên hồi trái là ban thờ tượng Tổ Tây. Tượng Tổ Tây được tạc kiểu Chân dung thể khối, ở tư thế ngồi trên bệ hình trái núi. Đầu để trần, tóc, râu quai nón đen. Mặt vuông chữ điền, hai mắt nhìn thẳng. Tượng mặc áo cà sa, cổ áo cài bắt chéo vào nhau, viền cổ áo chạm hoa văn, tay phải úp xuống gối phải, tay trái để lên gối trái, bàn tay úp vào phía trong lòng. Hai chân ngồi mở rộng bằng vai, chân phải đi hia, mũi tròn, chân trái gác lên bệ, bàn chân để trần. Bên hồi phải là ban thờ tượng Tổ. Tượng Tổ được tạc ở tư thế ngồi trên bệ, đầu để trần, khuôn mặt vuông chữ điền, mũi cao, môi đỏ, hai mắt nhìn thẳng, cổ cao, tai dài. Tượng mặc áo cà sa, cổ áo cài bắt chéo, cổ áo trong màu đỏ, hai bàn tay lồng vào nhau để trong lòng đùi, hai chân khoanh tròn, bàn chân phải để ngửa trên lòng đùi trái.

Để không gian thờ tự thêm phần thiêng liêng, trang trọng tại toà hậu cung và tiền đường chùa Ngọc Chi được treo 4 bức đại tự và 2 đôi câu đối ca ngợi đạo pháp và đức Phật. Xin nêu nội dung của một bức đại tự và một đôi câu đối (nội dung các bức đại tự và câu đối còn lại xin xem trong tài liệu Hán nôm).

Đại tự:

- Phiên âm:         Phúc Khánh tự.

- Dịch nghĩa:          Chùa Phúc Khánh

(Chùa có nhiều điều tốt lành, chúc thọ và niềm vui)

Câu đối:

- Phiên âm:    Tứ hải tâm linh chiêm ngưỡng Phật.

                      Thập phương Phật tử nhập môn không.

- Dịch nghĩa:      Bốn biển tâm linh chiêm ngưỡng Phật.

                          Mười phương Phật tử đến cửa thiền.

Là một di tích lịch sử Phật giáo, chùa Ngọc Chi được xây dựng từ khá sớm. Trải qua nhiều biến động của lịch sử, di tích vẫn giữ được kiểu dáng kiến trúc ban đầu khá nguyên vẹn, kiến trúc kiểu kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền đường và 2 gian hậu cung. Công trình còn lưu giữ được nhiều mảng chạm khắc đẹp tại vì nách vì kèo gian trung tâm, xà nách, con thuận, bảy hiện.... Đó là những tiêu bản quí giúp ta hiểu thêm về kiến trúc cổ Việt Nam./.

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN NINH GIANG

Cơ quan chủ quản: Uỷ ban nhân dân huyện Ninh Giang
Trưởng Ban Biên tập: Ông Nguyễn Thành Vạn - HUV - PCT UBND huyện
Cơ quan Thường trực: Văn phòng HĐND&UBND huyện
Đơn vị thực hiện: Ban Biên tập Cổng thông tin điện tử huyện Ninh Giang

Địa chỉ: Đường Lê Thanh Nghị - Khu 3 Thị trấn Ninh Giang - Huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương

Điện thoại: 0220 3 767 352 Email: ubnd.ninhgiang@haiduong.gov.vn
 

Đăng nhập

Số lượt truy cập
Đang truy cập: 4
Hôm nay: 12
Tất cả: 526,128