I. DI TÍCH LỊCH SỬ
CẤP QUỐC GIA – ĐỀN THỜ KHÚC THỪA DỤ
Di
tích lịch sử quốc gia Đền thờ Khúc Thừa Dụ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang,
tỉnh Hải Dương. Di tích được gọi theo tên danh nhân Khúc Thừa Dụ - người xây
dựng nền tự chủ thế kỷ thứ X.
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ và đình Cúc Bồ được xây dựng trên một khuôn viên đất có diện
tích 15.000m, thuộc xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Đền thờ Khúc Thừa Dụ được xây dựng ở phía trước và cách
đình Cúc Bồ khoảng 4m về hướng Tây. Toàn bộ khu vực đền thờ Khúc Thừa Dụ và
đình Cúc Bồ có tường bao quanh, mặt tiền đều quanh hướng Tây nhìn ra sông Luộc,
qua dòng sông Luộc sang bờ bên kia là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; phía Nam và
phía Đông giáp đường làng; phía Tây giáp ruộng canh tác và khu dân cư; phía Bắc
giáp khu dân cư. Tuy trên một khuôn đất, nhưng đều có cổng riêng, vào đền đi
theo hướng Nam, đình theo hướng Đông.
Căn
cứ vào các tài liệu đã công bố: Cúc Bồ xưa thuộc đất Hồng Lộ. Thời Lý - Trần
(thế kỷ XIII - XIV thuộc đất Hồng Châu (1), phủ Hạ Hồng. Vào đầu thế
kỷ XIX, Cúc Bồ thuộc tổng Bồ Dương, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, trấn Hải
Dương (2); nguyên trước là hai thôn Cúc và thôn Bồ (3).
Tổng Bồ Dương gồm 7 xã: An Cúc, Bồ Dương, Cúc Bồ, Động Trạch, Lũng Quý, Quang
Dực và Ngọc Chi.
Sau
cách mạng tháng 8 năm 1945, hai thôn Cúc và thôn Bồ sáp nhập thành một, có tên
chung là Cúc Bồ. Tiếp đến hai thôn Ngọc Chi và An Cúc sáp nhập thành thôn Ngọc
Cúc. Cuối năm 1946, thôn Ngọc Cúc sáp nhập thêm thôn Lũng Quý thành xã Tân Mỹ.
Đầu năm 1947, Tân Mỹ sáp nhập với thôn Cúc Thị thành xã Tử Mỹ. Cũng vào cuối
năm này, nhập thôn Cúc Bồ với xã Tử Mỹ thành xã Kiến Quốc.
Năm
1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 504-NQTVQH phê chuẩn việc hợp
nhất hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành một tỉnh, lấy tên là Hai Hưng. Từ
đây, xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Hưng, Năm 1979, Hội đồng
Chính phủ ra quyết định số 70/CP về việc hợp nhất và điều chỉnh địa giới 13 huyện
của tỉnh thành 7 huyện mới. Trong đó hợp nhất huyện Ninh Giang và huyện Thanh
Miện thành huyện Ninh Thanh, huyện lỵ đặt tại huyện Thanh Miện cũ. Theo đó xã
Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng.
Sau
ngày tái lập tỉnh, huyện (1997), xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải
Dương,
Kiến Quốc là một xã lớn, nằm ở phía Tây và cách thị trấn
Ninh Giang khoảng 7km. Địa hình xã giống như ống tay áo xuôi theo hướng Bắc -
Nam. Về đường bộ, xã có đường tỉnh lộ 396, đường đê sông Luộc, các đường liên
xã, liên thôn được bê tông hoá. Về đường thuỷ, xã nằm bên bờ sông Luộc, một phụ
lưu của sông Hồng. Sông khá rộng và sâu, xuôi xuống phía Đông ra cảng Hải
Phòng, sang đất mỏ Quảng Ninh, ngược về phía Tây đi thị xã Hưng Yên đến thủ đô
Hà Nội rồi theo sông Hồng tới Lào Cai. Đây cũng là đường thông thương với các
tỉnh Thái Bình, Hưng Yên, Nam Định... Sông Luộc không chỉ là đường giao lưu
kinh tế, buôn bán với các tỉnh thành mà còn là môi trường thuận lợi cho nghề
đánh bắt thuỷ sản, cung cấp nước ngọt, đất phù sa cho Kiến Quốc cũng như các xã
ven sông. Diện tích tự nhiên của xã: 559,29ha, dân số gồm 7.125 người. 1.833
hộ. (tính đến tháng 12 năm 2010), gồm 5 thôn: Cúc Bồ, Ngọc Chi, An Cúc, Lũng
Quý và Cúc Thị. Trong đó, thôn Cúc Bồ xưa có tên nôm là làng Gọc. Tại đây từng
có Gọc bến (bến sông cổ) và Gọc chợ (nay là thôn Cúc Thị). Đất Cục Bổ khá màu
mỡ, có những bãi cói, hoa cúc và hoa Bồ mọc tự nhiên ven sông - những loài cây
thích hợp với thổ nhưỡng vùng nước lợ. Có thể do một sự biến thiên xã hội nào
đó của địa phương, tên loài hoa đã trở thành tên của vùng đất Cúc Bồ ngày nay
(?). Nguồn thu nhập trong cuộc sống hàng ngày của người dân nơi đây chủ yếu
bằng nghề trồng lúa, trồng mầu, trồng bông trên các chân ruộng cao, bãi bồi ven
sông và chăn nuôi gia súc, gia cầm và có thêm một số nghề phụ như đan lát, đơm
đăng chài lưới, đánh bắt tôm cá, cơ khí, vận tải, dịch vụ...riêng thôn Cúc Bồ
có thêm nghe mộc truyền thống xây cất các đình, chùa nổi tiếng trong và ngoài
tinh. Nhờ vậy. mức sống của nhân dân
tương đối cao. Ngạn ngữ xưa trong vùng từng có câu: “Tiền làng Gọc, thóc làng
Chuông (4).
Căn
cứ vào bản đồ hành chính tỉnh Hải Dương năm 1997, xã Kiến Quốc có vị trí địa lý
như sau:
- Phía Đông giáp xã Hồng
Phong và Ninh Hải (huyện Ninh Giang);
- Phía Tây giáp xã Hồng
Phúc và Tân Phong (huyện Ninh Giang);
-
Phía Nam là sông Luộc, bên kia sông thuộc địa phận xã Quỳnh Hoa, huyện Quỳnh
Phụ, tỉnh Thái Bình;
- Phía Bắc giáp xã Đông
Xuyên (huyện Ninh Giang).
b. Đường đi đến di
tích:
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ, nằm cách trung tâm thành phố Hà Nội 85km về phía đông, cách
thành phố Hải Dương 25km về phía Nam.
Du
khách về tham quan di tích có thể đi bằng nhiều đường và các phương tiện khác
nhau như: ô tô, xe máy, xe đạp đều rất thuận lợi.
Từ thành phố Hà Nội du khách đi theo quốc lộ 5 (Hà Nội -
Hải Phòng) về đến địa phận huyện Bình Giang - nơi đầu tiên của tỉnh Hải Dương
trên đường Hà Nội về, gặp biển chỉ dẫn đi Kẻ Sặt, chúng ta tiếp tục đi vào
đường 392 qua thị trấn Kẻ Sặt gặp quốc lộ 20 đi Thanh Miện khoảng 20km đến thị
trấn Thanh Miện rẽ phải hướng đi Hưng Yên, qua cầu Neo rẽ trái đi Đảo Cò,
khoảng 3km đến ngã tư hướng đi Đảo Cò rẽ trái đi đường liên huyện sang Ninh
Giang khoảng 10km là đến di tích.
Từ
trung tâm thành phố Hải Dương (tỉnh lỵ của tỉnh Hải Dương) theo quốc lộ 37 đi
qua huyện Gia Lộc đến huyện Ninh Giang khoảng 28km, đi tiếp đến cầu Me, thuộc
địa phận xã Đồng Tâm rẽ phải, đi khoảng 5km nữa là đến thôn Cúc Bồ - nơi có di
tích.
Sự kiện, nhân vật
lịch sử, đặc điểm của di tích:
Thế
kỷ X, hào trưởng Khúc Thừa Dụ gốc Hồng Châu (huyện Ninh Giang ngày nay) đã
chiêu tập nhân dân, dấy binh khởi nghĩa, giành độc lập sau hơn một nghìn năm
Bắc thuộc và tự xưng Tiết độ sứ.
Phong
trào Cần Vương chống Pháp (1883 - 1888), người dân nơi đây đã cùng với nhân dân
các vùng phụ cận thuộc Thanh Miện (Hải Dương), Vũ Thư (Thái Bình)... tham gia
hưởng ứng khởi nghĩa Bãi Sậy của nghĩa quân Tán Thuật.
Trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), do phong trào địa phương phát
triển mạnh nên sau khi chiếm đóng Ninh Giang (tháng 10 năm 1949), thực dân Pháp
đã tổ chức nhiều đợt càn quét khốc liệt nhằm triệt phá cơ sở kháng chiến. Tháng
01 năm 1950, quân Pháp ép dân làng phá dỡ đình, chùa, đền, miếu để xây dựng đồn
bốt, nhân dân Cúc Bồ đã khéo léo vừa phá dỡ vừa bí mật chuyển cất dấu một phần
kiến trúc và đồ thờ tự đến xóm Trung cùng thôn để bảo quản. Sau chiến thắng
Điện Biên Phủ (1954), miền Bắc hoàn toàn giải phóng, chính quyền và nhân dân
địa phương đóng góp tiền của, công sức để tiếp tục khôi phục một phần di tích
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng. Năm 1989, chính quyền và nhân dân
địa phương tiếp tục trùng tu đình Cúc Bồ theo kiểu chữ Đinh (J) trên cơ sở kế
thừa kiến trúc miếu Cúc Bồ.
Tháng
7 năm 1999, trong khi nạo vét dọn hồ sen trước cửa đình Cúc Bồ nhân dân địa
phương đã tìm thấy một số viên gạch, ngói có chữ Hán cùng một số cột lim dưới
lòng hồ.
Tháng
9 năm 1999, Bảo tàng Hải Dương đã tiến hành đào thám sát, khai quật lòng hồ sen
trước đình Cúc Bồ, với diện tích 80m chạy dài theo hướng Đông -Tây ở độ sâu
60cm so với mặt ruộng canh tác. Kết quả thu được 325 mảnh gốm, 2.154 mảnh ngói,
101 mảnh gạch và 5 mảnh đá, ngoài ra, còn tìm thấy 18 đoạn gỗ có đường kính
trung bình 20cm. Trong số 2.154 mảnh ngói thì có 5 mảnh có chữ Hán. Theo đánh
giá và kết luận của các nhà khoa học thì năm viên ngói hình ống có chữ Hán được
viết theo lối hành thư có chữ “Khúc Miếu”. Những hiện vật có niên đại từ cuối
thế kỷ X, cho phép kết luận nơi đây đã từng tồn tại những công trình kiến trúc
thuộc về dòng họ Khúc, trong đó có “Khúc Miếu” tức đền thờ họ Khúc hoặc đền thờ
Khúc Thừa Dụ vào cuối thế kỷ X.
Ngày
15 tháng 7 năm 2003, Sở Văn hoá Thông tin (nay là Sở Văn hoá, Thể thao và Du
lịch) giao cho Bảo tàng Hải Dương tổ chức toạ đàm “Khúc Thừa Dụ và quê hương
Cúc Bồ”. Đến dự và tham gia ý kiến có đại diện các nhà khoa học, quản lý, nhà
nghiên cứu Trung ương và địa phương như: Cục Di sản văn hóa, Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam, Viện Sử học Việt Nam, Viện Hán nôm, Tạp chí Xưa và nay, Hội Mỹ
thuật Việt Nam và các cơ quan, ban, ngành từ tỉnh đến huyện; Đại diện dòng họ
Khúc Việt Nam....
Hội
nghị đã xác định nơi đây là quê hương họ Khúc và họ Khúc có nhiều công lao đóng
góp cho công cuộc giải phóng dân tộc, xây nền tự chủ. Vì vậy, Đảng và Nhà nước
cần có sự quan tâm đúng mức để tôn vinh cho xứng đáng với những đóng góp của
Khúc Thừa Dụ và họ Khúc tại Cúc Bồ; việc làm đó được cụ thể bằng việc quy
hoạch, xây đền thờ và tiến hành lập hồ sơ xếp hạng di tích để có cơ sở trong
việc bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống tại địa phương.
Năm 2004, UBND tỉnh Hải Dương xây dựng đền thờ
Khúc Thừa Dụ. Năm 2009, khánh thành đền thờ Khúc Thừa Dụ và đưa vào khai thác
sử dụng.
Nhân
vật lịch sử:
Các
nhân vật được thờ tại di tích là những người thuộc dòng họ Khúc (là nhân thần),
có công chống lại ách đô hộ nhà Đường, khai mở nền tự chủ của Việt Nam vào thế
kỷ X sau gần nghìn năm Bắc thuộc.
- Khúc Thừa Dụ - còn gọi
là Khúc Tiên Chúa.
- Khúc Hạo - con trai
Khúc Thừa Dụ - còn gọi là Khúc Trung chúa.
- Khúc Thừa Mỹ - con
trai Khúc Hạo - còn gọi là Khúc Hậu chúa.
Theo
các nhà nghiên cứu lịch sử, thế kỷ thứ X đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch
sử. Ở phương Tây (Châu Âu), người ta gọi là năm một nghìn, thời kỳ phục hồi các
thành thị, sau một “Đêm dài Trung Cổ”. Cũng là thời kỳ của các cuộc thập tự
chinh - chiến tranh tôn giáo trong khốc liệt, cuồng tín nhưng lại tạo nền cho
sự giao thương trở lại giữa Tây - Đông.
Ở
Trung Hoa, sau sự sụp đổ của đế chế Đường (907) là một thời kỳ hỗn loạn “Ngũ
đại thập quốc” (907 - 960), kết thúc bằng sự thống nhất dưới thời Tống, với
trỗi dậy của ý thức dân tộc nguồn cội của người Hoa Hạ và sự ra đời của một ý
thức hệ mới - Tống Nho mà các nhà Trung Hoa học phương Tây gọi là Tân Nho giáo,
thay thế dần đạo giáo chính thống đời Đường.
Trong
bối cảnh chung và khu vực Đông Á ấy, sau gần một ngàn năm chống Bắc thuộc, từ
Trưng Vương (40 - 43) đến Lý Nam Đế (544 - 546) rồi Mai Hắc Đế (722), Bố Cái
đại vương Phùng Hưng (767 - 791), cả thế lực nội sinh cùng với thời cơ ngoại
sinh (thời - thế - cơ) đã đẩy nước Việt đứng lên dựng quyền tự chủ ở đầu thế kỷ
X.
Người
có công đầu trong cuộc tự chủ đó là họ Khúc ở Hồng Châu. Sự kiện này có thể tóm
tắt như sau:
Vào
đầu thế kỷ X, ở Trung Quốc, triều đình nhà Đường bước vào thời kỳ mạt vận. Tên
Độc Cô Tổn là Tiết độ sứ tại nước ta lúc bấy giờ có ý làm phản, cát cứ chống
lại triều đình trung ương, nên bị cách chức và bắt đi đày ở đảo Hải Nam rồi bị
giết chết.
Nhân
cơ hội đó, ở đất Hồng Châu, có người hào trưởng Khúc Thừa Dụ nổi tiếng khoan
hoà, nhân nghĩa và có thế lực trong vùng, đã chớp thời cơ dấy binh khởi nghĩa.
Được các đầu mục trong nước giúp sức, ủng hộ, Khúc Thừa Dụ mang đại quân đánh
chiếm phủ Tống Bình - Đại La (tức Hà Nội ngày nay), xưng là Tiết độ sứ, mở nền
độc lập cho dân tộc sau gần nghìn năm Bắc thuộc.
Để có
thời gian xây dựng chính quyền non trẻ, Khúc Thừa Dụ cho một phái bộ sang thần
phục nhà Đường, nhưng thực chất là dùng nhu chế cương. Niên hiệu Thiên Hựu năm
thứ ba (906), nhà Đường buộc phải công nhận và thăng Tĩnh Hải Tiết độ sứ Khúc
Thừa Dụ chức Đồng Bình chương sự. Rõ ràng chức Tiết độ sứ là do Khúc Thừa Dụ
giành lấy và nhà Đường phải công nhận, còn phong thêm chức khác. Theo ý kiến
của Giáo sư Trần Quốc Vượng thì đây là một hành động khôn ngoan, “cướp chính
quyền một cách hòa bình để xây dựng chính quyền tự chủ trong hoàn cảnh lịch sử
ngày xưa”. Tuy mang danh một chức quan nhà Đường, thực chất Khúc Thừa Dụ đã trở
thành người làm chủ một trung tâm hành chính của đất nước, một sự kiện hàng
nghìn năm trước đó chưa từng có. Ông được lịch sử đánh giá là ở người mở nền
độc lập cho đất nước, còn nhân dân tôn vinh ông là Khúc Tiên Chúa.
Ngày
23 tháng 7 năm Đinh Mão (907), Khúc Thừa Dụ qua đời. Người con trai là Khúc Hạo
thay cha, giữ chức Tiết độ sứ, tiếp tục sự nghiệp chăm lo xây dựng đất nước với
nhiều chính sách cải cách quan trọng.
Khúc
Hạo thay cha cai quản đất nước đúng vào thời kỳ nhà hậu Lương vừa thay thế nhà
Đường (907), ông đã khôn khéo cho một phái bộ sang nhà Lương thần phục để giữ
hoà bình với phương Bắc để tập trung vào việc nội trị, với mục tiêu cải thiện
đời sống nhân dân và xây dựng một chế độ hành chính trung ương tập quyền - một
hình thức mới nhất lúc bấy giờ.
Về
cải cách hành chính, Khúc Hạo chia nước ta thành các cấp: lộ, phủ, châu, giáp,
xã. Mỗi xã đặt một chánh lệnh trưởng. Một số xã gần nhau, trước là hương, đổi
là giáp. Mỗi giáp có một quản giáp và phó quản giáp trông coi mọi việc ở cấp
mình.
Về
kinh tế - xã hội, Khúc Hạo cho sửa lại chế độ điền tô, thuế và lực dịch nặng nề
mà nhà Đường đã đặt ra để bóc lột vơ vét dân ta.
Về
quốc phòng, ông chú ý bố phong, gìn giữ biên giới, lấy tình cảm để thu phục các
hào trưởng miền biên ải và xây dựng lực lượng bảo vệ đô thành, phòng thủ đất
nước.
Về
chính trị, ông lấy khoan dung, giản dị, yên ổn và vui sống làm mục tiêu cai trị
đất nước. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tiền biên - quyển 5, 15a, đã
tóm gọn những cải cách của Khúc Hạo trong mấy chữ cô đọng như sau: "Bình
quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp
trưởng (quản giáp trông coi). Chính trị cốt chuộng khoan dung giản dị. Nhân dân
đều được yên vui".
Quả
thực, với một nước có nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, người dân coi cái ăn
là cốt tử thì được hưởng sự khoan dung, giản dị, yên ổn là hạnh phúc. Kế sách
ấy đi vào lòng dân, được dân tri ân muôn đời. Mãi bốn trăm năm sau, nhà Trần
vẫn phát triển thành chiến lược “Khoan thư sức dân để làm kế sâu bền rễ, đó là
thượng sách giữ nước”.
Rõ
ràng, công cuộc cải cách, cai quản đất nước, giữ nền tự chủ của họ Khúc đã mở
ra một giai đoạn phát triển mới cho toàn xã hội mà các triều đại sau đó tiếp
tục hoàn thiện. Chính vì thế, thời Khúc Hạo cai quản đất nước là một thời kỳ
yên bình: việc chính trị khoan dung giản dị, dân yên vui chăm chỉ cấy cày.
Sau
này, các sử gia coi Khúc Hạo là nhà cải cách đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Giáo sư Trần Quốc Vượng có một so sánh rất độc đáo: “Đi ngược dòng lịch sử ta
thấy thế này: Thế kỷ thứ XX có Phan Chu Trinh, Hồ Chí Minh rồi sau này thập kỷ
80 là Nguyễn Văn Linh, Hồ Nghinh, Trường Chinh...Thế kỷ XIX có Nguyễn Trường
Tộ, Nguyễn Lộ Trạch...thất bại não nề và mất nước. Cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV
có Hồ Quý Ly, thất bại và mất nước. Đầu thế kỷ X có nhà cải cách Khúc Hạo, con
dõi, nối quyền của Khúc Thừa Dụ. Vậy, theo dòng lịch sử, Khúc Hạo là nhà cải
cách đầu tiên của thời quân chủ Việt Nam”.
Đầu
năm 917, Lưu Cung lên ngôi hoàng đế Nam Hán, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ
và Ngô Mẫn mang lễ vật sang mừng để kết tình bang giao. Lưu Mân nhận lễ vật và
quốc thư. Nhưng cuối năm ấy, Khúc Hạo qua đời, Khúc Thừa Mỹ lên nối ngôi, giữ
binh quyền cai quản đất nước. Biết Lưu Cung có tham vọng lớn, lại tráo trở, nên
Khúc Thừa Mỹ đã có ý đề phòng. Ông phái tướng lĩnh tâm phúc lên vùng thượng du
liên kết với các tù trưởng, các dân tộc tiểu số Tày Nùng, tổ chức thành những
đội quân giỏi đánh trong rừng núi. Ông cho thành lập các đội thám báo, giỏi võ
nghệ, hoặc giả làm người lái buôn hay người đi du thuyết, thâm nhập Nam Hán dò
tin tức quân mã.
Năm
Canh Dần (930), nhà Nam Hán đem quân tiến đánh nước ta bằng đường thuỷ và đường
bộ. Thế giặc mạnh, Khúc Thừa Mỹ không chống cự được, đã bị bắt và sự nghiệp họ
Khúc đến đây kết thúc, đất nước lại tiếp tục rơi vào tình trạng bị phương Bắc
đô hộ lần thứ 2.
Ba
đời họ Khúc liên tục kế nghiệp lãnh đạo nước ta, tuy thời gian nắm chính quyền
chưa được 30 năm nhưng đã in dấu son trong lịch sử dân tộc. Đó là thời kỳ mở
nền độc lập, tự chủ, với những cải cách lớn có giá trị bền vững trong quá trình
dựng nước và giữ nước.
Sách,
Lịch sử Việt Nam - thế kỷ X đầu thế kỷ XV, NXB Khoa học Xã hội, xuất bản năm
2002, có ghi: "Khúc Thừa Dụ, người Hồng Châu, ở làng Cúc Bồ - nay thuộc
huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương".
Tại
nhà thờ họ Khúc, xã Từ Lâm (Vĩnh Bảo - Hải Phòng), còn đôi câu đối ghi chép về
đất tổ Cúc Bồ:
Cúc địa tự hưng trường
sự nghiệp
Hồng thiên khởi chủ
quảng dư đồ
Dịch nghĩa:
Đất Cúc Bồ nổi lên mà
kéo dài sự nghiệp
Trời Hồng Châu dấy lên
nền tự chủ (cho đất nước) để mở rộng giang sơn.
Chi
họ Khúc ở Thụy Sơn, Thụy Phú (Thái Thụy - Thái Bình) còn cho biết: Các cụ xưa
đi lánh nạn, xuôi theo sông Hoa đến tận bờ biển Thụy Anh và cư trú tại đó. Vì
nhớ quê hương cũ, cho nên các cụ đặt tên cho làng là “làng Gọc”,
Riêng tại Cúc Bồ còn lưu
giữ được nhiều tài liệu liên quan tới họ Khúc. Đặc biệt có đôi câu đối,
Cúc
Bồ di tổ nghiệp
Hồng hạt dĩ
tiên lai
Dịch nghĩa:
(Đất
Cúc Bồ lưu giữ sự nghiệp tổ tiên, hạt Hồng Châu mở hướng tương lai con cháu).
Và một bài
cổ thi nổi tiếng vẫn được lưu truyền trong nhân dân:
"Tam tiên cơ tự chủ
Vạn cổ Khúc linh từ
Cúc Bồ lưu hiển tích
Hồng hạt thử thiên thư"
Dịch
nghĩa:
"Ba
vị Chúa gây dựng nền tự chủ,
Đền thờ họ
Khúc sẽ còn đến muôn thủa,
Tại làng Cúc Bồ còn giữ được dấu
tích,
Đất Hồng Châu đã được ghi
lại ở sách trời"
Sinh hoạt văn hoá tín
ngưỡng liên quan đến di tích:
Trước
Cách mạng tháng 8 năm 1945, Cúc Bồ có một quần thể di tích gồm: đình (thờ Thành
hoàng Dương Quý Hiển và phối thờ Khúc Thừa Dụ); miếu (thờ Khúc Hạo), đền (thờ
Khúc Thị Ngọc (Quỳnh Hoa công chúa) - con gái Khúc Thừa Dụ) và chùa (thờ phật).
Trong bốn di tích này, hàng năm lễ hội đình Cúc Bồ được tổ chức lớn nhất, vào
hai kỳ: lễ đình đám tháng giêng (âm lịch) và lễ kỷ niệm ngày mất của Khúc Thừa
Dụ vào 23 tháng 7 (âm lịch). Kỳ lễ hội tháng giêng diễn ra trong 3 ngày (từ
ngày 14 đến 16), ngay từ ngày 14, dân làng đã nô nức ra đình từ rất sớm làm các
công việc chuẩn bị cho hội: bao sái đồ thờ, chồng kiệu, dọn dẹp đường
“nghinh thỉnh” phong quang, sạch sẽ từ đình Cúc Bồ đến miếu thờ Khúc Hạo để tổ
chức rước. Ngày 15 là trọng hội. Theo lệ, cứ ba năm một lần, các giáp Đông,
Đoài Dương và Bắc lại thay nhau làm chủ tế. Lễ vật gồm có lợn, gà đã làm thịt
và xôi, oản, quả các loại. Trong lễ tế, tiết mục đặc biệt nhất là đọc chúc văn,
thường khi đến phần tên “Huý” của các vị thánh thì chiêng trống nổi lên rầm rộ
để không cho người ngoài biết. Sau nghi thức tế lễ, theo sự hướng dẫn của các
Hương lão, đoàn rước phân công đi theo trình tự: kỳ lân, sư tử đi trước, hương
án, kiệu bát cống, kiệu long đình có tàn che. Kế đến là các vị chức sắc, quan
viên, và cuối cùng là dân làng. Đoàn rước tiến bước theo nhịp trống, chiêng
vang dội, lộ trình từ đình đến miếu thờ Khúc Hạo tổ chức lễ bái qua đêm, sáng
ngày hôm sau mới rước về đình, tổ chức lễ tạ, kết thúc lễ hội. Cũng vào ngày
16, tại miếu thờ Khúc Hạo có tổ chức các trò chơi dân gian như: đấu võ, đấu
vật, cờ tướng, chọi gà...thu hút cả những đô vật từ Hải Phòng, võ sĩ từ Thanh
Hoá, Nghệ An về dự tạo nên một không khí náo nhiệt từ đình đến miếu. Kỳ lễ hội
tháng 7 diễn ra trong một ngày là ngày 23 kỷ niệm ngày mất của người anh hùng
Khúc Thừa Dụ. Nghi thức tế lễ do đội tế nam trong thôn Cúc Bồ đảm nhiệm, lễ vật
do ba giáp Đông, Đoài Dương và Bắc chịu trách nhiệm sắm sửa gồm: lợn, xôi, hoa
quả, trầu rượu...
Tháng
01 năm 1950, thực dân Pháp ép dân làng phá dỡ đình, chùa, đền, miếu để xây dựng
đồn bốt, nhân dân Cúc Bồ đã khéo léo vừa phá dỡ vừa bí mật chuyển cất dấu một
phần kiến trúc và đồ thờ tự. Năm 1989, trùng tu đình Cúc Bồ trên cơ sở kế thừa
kiến trúc miếu Cúc Bồ. Và, cũng trong năm này, lễ hội đình Các Bồ mới được phục
dựng trở lại.
Năm
2004, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hải Dương đã xây dựng đền thờ Khúc
Thừa Dụ. Năm 2009, tổ chức khánh thành và đưa công trình vào khai thác sử dụng,
nhân dân lấy ngày mất của Khúc Thừa Dụ (ngày 23 tháng 7 âm lịch), để tổ chức Lễ
hội. Lễ hội do UBND huyện Ninh Giang chủ trì giao cho UBND xã Kiến Quốc đứng ra
tổ chức long trọng với mục đích tri ân, nhớ ơn người xưa đã xây dựng nền độc
lập tự chủ cho đất nước. Qua đó nhằm tuyên truyền, quảng bá sâu rộng về sự
nghiệp của họ Khúc và truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm đến với thế
hệ trẻ hôm nay và mai sau; truyền thống đó sẽ tiếp tục được lan tỏa không chỉ
với nhân dân trong xã, huyện, tỉnh mà còn với cả du khách thập phương vùng phụ
cận và cả nước. Thời gian lễ hội diễn ra bắt đầu từ tối ngày 22 với nghi thức
tế cáo yết, xin phép mở lễ hội do đoàn tế nam của thôn Cúc Bồ đảm nhiệm, sau đó
là các tiết mục văn nghệ của nhân dân địa phương và nhà hát chèo Hải Dương biểu
diễn. Sáng ngày 23, trước lễ tế và diễn văn khai mạc ôn lại công lao của
các vị anh hùng họ Khúc là màn trống khai hội tạo nên không khí hào hùng, uy
linh, hoành tráng. Buổi chiều tổ chức các trò chơi dân gian: chọi gà, cờ tướng,
kéo co...Lễ hội đã thu hút đông đảo người tham dự từ trung ương, tỉnh, huyện,
xã đến con cháu dòng họ Khúc gần, xa cùng nô nức trở về quê hương trong tình
cảm chan hoà hướng về cội nguồn.
Có
thể nói, lễ hội đình Cúc Bồ xưa và đền thờ Khúc Thừa Dụ nay thực sự là một
trong những lễ hội truyền thống tiêu biểu của xã Kiến Quốc nói riêng và của
huyện Ninh Giang nói chung mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Có sự gắn kết giữa lễ
hội đình vào dịp mùa xuân và lễ hội đền vào mùa hạ. Sự gắn kết giữa đình và đền
không chỉ gắn kết về mặt địa lý mà còn gắn kết về giá trị nhân văn trong việc
tổ chức lễ hội. Thông qua lễ hội, mọi người cùng nhau nhắc nhớ lại công lao
đánh đuổi giặc ngoại xâm, xây dựng nền độc lập tự chủ của các vị anh hùng họ
Khúc, đồng thời nêu cao truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn, hướng tới mục
đích giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc đối với các thế
hệ ngày hôm nay, đặc biệt là thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước.
Kiến trúc di tích
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ được xây dựng trên khuôn viên đất cao, rộng và thoáng. Công
trình được tôn tạo với bố cục và quy mô lớn, có diện tích 15.000m, ở phía trước
và cách đình Cúc Bồ khoảng 4m về hướng Tây (nơi trước đây Khúc Thừa Dụ được
phối thờ, di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia vào năm 1998) tạo thành quần
thể kiến trúc hài hòa giữa đền nước - đình làng để tôn vinh tương xứng với vị
thế và công lao của dòng họ Khúc trong lịch sử dân tộc.
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ tọa lạc trên một khu đất rộng, thoáng, mặt tiền quay hướng
Nam, nhìn ra sông Luộc là nơi lưu thuỷ, di tích có kiến trúc chữ Công (I), gồm
các hạng mục công trình:
- Nghi môn ngoại, chất liệu đá;
- Cầu đá;
- Giếng mắt rồng, chất liệu đá;
- Nhà bia, chất liệu bê tông cốt thép,
lợp ngói mũi.
- Nghi môn nội và các mảng phù điêu bằng
đá;
Hai
dãy giải vũ, mỗi dãy năm gian, kiểu chữ Nhất (-), chất liệu gỗ, mái lợp ngói
mũi;
- Đền thờ Khúc Thừa Dụ, kiểu chữ Công
(I), chất liệu gỗ, mái lợp ngói mũi.
- Nhà Ban quản lý, chất liệu bê tông
cốt thép, mái đổ bê tông dán ngói mũi.
- Công trình phụ.
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ được xây dựng và tôn tạo chia làm năm giai đoạn. Giai đoạn 1,
giải phóng mặt bằng, xây tường rào, nghi môn nội, bãi đỗ xe và móng đền chính.
Giai đoạn 2, hoàn thiện đền chính, làm tượng danh nhân, thi công nhà tả vu, hữu
vu và giếng mắt rồng. Giai đoạn 3, thi công nhà bia, phù điêu đá và nhà Ban
quản lý. Giai đoạn 4, thi công nghi môn ngoại (tứ trụ), cầu đá, sân vườn. Giai
đoạn 5, thi công tượng linh thú, kè hồ và các hạng mục còn lại. Tổng số tiền
trong năm giai đoạn đầu tư gần 38 tỷ đồng, từ nguồn vốn của tỉnh, trung ương và
các nguồn vốn huy động khác. Thời gian thực hiện và hoàn thành cho năm giai
đoạn thi công từ 2004 - 2008.
Hiện
nay, đền thờ Khúc Thừa Dụ có khuôn viên rộng, tường bao khép kín, cảnh quan
đẹp, kiến trúc hoành tráng, đồng bộ, mặt tiền quay hướng Nam, nhìn ra sông Luộc
là nơi lưu thuỷ, còn chính điện cùng các hạng mục khác được bố cục đăng đối
trên trục thần đạo theo hướng Bắc Nam là hướng của đế vương.
Từ
ngoài vào là nghi môn được làm kiểu tứ trụ (nghi môn ngoại), chất liệu bằng đá
xanh, nằm ngay bên cạnh con đường cái quan của làng, trang trí hoa văn và con
giống truyền thống. Phía sau nghi môn qua chiếc cầu đá bước tới khoảng sân dành
cho các hoạt động vui chơi, còn gọi là sân hội. Trên sân hội, hồ sen được đặt
vào vị trí trung tâm và giao thông được phân tuyến. Hai bên là giếng mắt rồng,
hai nhà bia dạng phương đình tám mái và mười tượng linh thú cùng vẻ đẹp của hai
bức phù điêu ghép bằng các mảng đá lớn với các hoạ tiết được chạm khắc công
phu, mô tả quang cảnh nhân dân tụ nghĩa theo tiên chúa Khúc Thừa Dụ giành chính
quyền tự chủ và cuộc sống thái bình, an cư lạc nghiệp, tổng hoà thành một không
gian kiến trúc mang tính nghệ thuật giới thiệu lịch sử thế kỷ X và giáo dục
truyền thống yêu nước.
Tiếp
đến là nghi môn nội ngăn cách giữa không gian tổ chức hội với không gian của
các sự lệ, nghi lễ (sân lễ). Sân khá rộng, hai bên có nhà tả vu, hữu vu. Qua
sân lễ là đền chính có kiến trúc kiểu chữ Công (I) gồm 5 gian tiền tế, 3 gian
trung từ và 5 gian hậu cung. Toàn bộ ngôi đền được dựng trên nền bệ cao chín
bậc có lan can và thềm bó đá xung quanh.
Năm
gian tiền tế bề thế, được xây dựng theo kiến trúc cổ truyền, các đầu đao ở các góc,
bộ mái rộng chảy ra bốn phía nhưng không nặng nề mà ngược lại trông rất
nhẹ nhàng, hài hòa, toát nên vẻ đẹp về mỹ thuật và kết cấu của công trình. Với
lối cấu trúc bốn mái khiến cho quan sát từ hướng nào cũng như chính diện, mỗi
mặt như một lưỡi rìu chém xuống, chắc chắn, dứt khoát mà không cứng nhắc gò
theo hình học cơ bản. Trên cạnh bờ nóc và bờ giải, được gắn những đường gân
và dải hoa chanh tạo sự mềm mại. Hai đầu bờ nóc tiền tế đắp lạc long, đầu đao
các góc mái đắp rồng chầu phượng mớm. Hệ thống cửa chất liệu gỗ lim, được làm
kiểu thượng song hạ bản, các mảng chạm khắc trên các bộ cửa theo đề tài tứ quí.
Kết
cấu bộ khung vì chịu lực liên kết các cấu kiện và các bộ vì chia gian của di
tích được làm chất liệu gỗ lim gồm 6 vì kèo, trong đó có 4 vì kèo chính và 2 vì
kèo hạ khoảng tại gian dĩ. Các vì kèo này có kiến trúc giống nhau kiểu chồng
rường. Các con rường được đặt trên các đấu vuông thót đáy, chạm lá lật và hoa
sen. Kích thước cột cái và cột quân lớn được đặt trên chân đá tảng vuông thót
đáy. Hoành, rui được bào nhẵn, lắp ghép cân đối, hài hoà. Bảy hiên chạm liên
hoàn hai mặt tích long hý thủy, long hý ngư. Các bức chạm trên xà nách, đầu
dư...đều mô phỏng theo phong cách nghệ thuật truyền thống thời hậu Lê khá đẹp.
Ba
gian trung từ được nối với gian trung tâm toà tiền tế bởi hệ thống kẻ xối, gồm
4 bộ vì kèo được kiến tạo giống toà tiền tế. Hai bên tường hồi toà trung từ
không xây gạch mà thay vào đó là hệ thống cửa bức bàn ghép kín, chính giữa là
một bộ cửa kiểu thượng song hạ bản tạo thành lối ra, vào thông với lan can và
hệ thống bậc cấp xuống sân vườn.
Năm
gian hậu cung dàn ngang giống toà tiền tế và nối với gian trung từ ở chính giữa
tạo cho di tích có bình đồ kiến trúc kiểu chữ Công (I). Ngăn cách giữa toà
trung từ và hậu cung là một bức chạm thủng hổ phù và long quần rất sinh động ở
chính giữa, hai bên là hai bộ cửa thượng song hạ bản. Khác với toà tiền tế và
toà trung từ, phần mái toà hậu cung được kiến tạo chồng diêm cổ các, hai tầng
tám mái nên trong lòng toà nhà này khá cao tạo ra độ sâu thẳm cho không gian
thiêng - nơi đặt ba pho tượng thờ tiên chúa Khúc Thừa Dụ, trung chúa Khúc Hạo
và hậu chúa Khúc Thừa Mỹ.
Phía
sau đền là khu đất cao được tạo ra trông như quả núi (với ý nghĩa gối sơn đạp
thủy) và một số loại cây ăn quả lâu năm truyền thống của địa phương như vải,
nhãn...Ngoài ra, còn trồng thêm các cây cổ thụ như đa, bồ đề...khoảng vườn này
sẽ là một điểm dừng chân lý tưởng cho du khách thập phương khi đến thăm khu di
tích, đồng thời làm điểm tựa, chỗ dựa vững chắc về mặt bố cục và không gian đệm,
ngăn cách với khu dân cư tạo cho khu di tích một không gian linh thiêng.
Đền
thờ Khúc Thừa Dụ là một công trình văn hoá được xây dựng để tưởng niệm, tôn
vinh người có công xây dựng nền độc lập của dân tộc vào thế kỷ X của dòng họ
Khúc tại quê hương Cúc Bồ. Nơi đây đã tìm thấy những viên gạch có khắc chữ Khúc
Miếu - để minh chứng cho việc thờ tự đã có từ rất sớm.
Di
tích được xây dựng tại vị trí trung tâm của xã, cạnh đình Cúc Bồ, các công
trình trong tổng thể không gian di tích được làm chất liệu gỗ tứ thiết và hệ
thống phù điêu bằng đá xanh tạo thành quần thể hài hòa, không đơn điệu và tuân
thủ theo lối kiến trúc truyền thống, từ đó tăng thêm sự uy nghi, bề thế và vẻ uy
linh ho di tích.
Lễ
hội truyền thống hàng năm có sự gắn kết giữa đình và đền, nhằm tăng thêm tính
bền vững, tinh thần đoàn kết của cộng đồng nhân dân nơi đây, nhằm khơi dậy lòng
tự hào, tinh thần tự tôn dân tộc, giáo dục truyền thống yêu nước; tiếp tục bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hoá phi vật thể tại địa phương cho các thế kê
tiếp; coi đây là thiết chế văn hóa, điểm du lịch tâm linh của tỉnh Hải Dương để
khai thác và phát huy một cách hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội
tại địa phương.
II.
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA ĐÌNH CÚC BỒ, XÃ KIẾN QUỐC
Nằm
trên dải đất phù xa cổ ven sông Luộc (nối liền Sông Hồng và Sông Thái Bình),
Cúc Bồ là một làng (trang trại) được hình thành khá sớm trong lịch sử. Đây
chính là quê hương của nhóm cư dân - làng nghề làm đình nổi tiếng từ lâu đời
của xứ Đông.
Căn
cứ vào kết quả khảo sát dân tộc học, Cúc Bồ xưa có tên nôm là làng Gọc. Tại đây
từng có Gọc bến (bến sông cổ) và Gọc chợ (nay là thôn Cúc thị). Đất Cúc Bồ khá
mầu mỡ, có những bãi cói, hoa cúc và hoa Bồ mọc tự nhiên ven sông - Những loài
cây thích hợp với thổ nhưỡng vùng nước lợ. Có thể do một sự biến thiên xã hội
nào đó của địa phương, tên loài hoa đã trở thành tên của vùng đất Cúc Bồ ngày
nay (?)
Di
tích được khởi dựng từ khá sớm, theo hướng Nam trên khu đất cao ráo, bằng
phẳng; cách đê Sông Luộc gần 1km. Trong quá trình sản xuất tại đây nhân đã phát
hiện được nhiều di vật khảo cổ như: Gạch mộ Hán, quách mộ Cũi và nhiều phế tích
gốm cổ của những thế kỷ đầu công nguyên.
Trải
qua các biến cố tự nhiên và xã hội, nhiều di tích lịch sử của quê hương Kiến
Quốc đã không tránh được sự xuống cấp, thậm chí bị giải hạ hoàn toàn. Hiện tại
ngoài đình Cúc Bồ, địa phương chỉ còn có chùa Ngọc Chỉ với một số cổ vật như:
Tượng phật, chuông đồng, được nhân dân tích cực bảo quản.
Qua
nghiên cứu khảo sát di tích, đình Cúc Bồ là nơi thờ vọng Khúc Thừa Dụ, danh
nhân dân tộc thế kỷ 10 và Dương Quý Hiển, võ tướng thời Lý từng có công đánh
thắng quân xâm lược nhà Tống (1075). Trong thời kỳ lịch sử cận hiện đại, di
tích từng là nơi diễn ra nhiều sự kiện. Ngày nay, Khúc Thừa Dụ được thờ tại
ngôi đền, nằm sát cạnh đình Cúc Bồ.
Theo
sự tích tại địa phương thì Dương Quý Hiển là một tướng của Lý Thường Kiệt đã hy
sinh anh dũng tại Khâm Châu năm 1075 trong cuộc tấn công vào căn cứ của địch để
tự về, ngăn chặn bước tiến xâm lược của quân Tống. Được tin chồng tử trận bà vợ
ở nhà đã nhảy xuống sông Cúc Bồ (Sông Luộc) tự vẫn. Sau khi bà Dương Quý Hiển
mất, dân làng suy tôn làm thành hoàng được các triều đại phong sắc. Nay ở đình
làng còn câu đối ca ngợi công đức vợ chồng ông:
- Vị Nam thiên tranh
tự do quyền, tinh vẫn Khâm Châu anh khi đại.
- Chỉ Bắc địa thệ tùy nhất trí, nguyệt trầm Cúc Thủy
nộ đào sinh.
Nghĩa là:
-
Vì trời Nam giành quyền tự do, tuy đã hy sinh ở Khâm Châu nhưng chỉ khi anh
hùng vẫn còn.
-
Chỉ đất Bắc thề một lòng thác theo chồng, nay nàng chẫm mình ở Các Thủy sóng
giận giữ trào dâng (1)
Cũng như nhiều làng quê Việt Nam, việc thờ tự người có
công với nước với dân như Khúc Thừa Dụ, Dương Quý Hiển tại Cúc Bồ được hình
thành từ rất sớm. Song, ngôi đình được khởi dựng vào năm nào hiện nay chưa có
tài liệu nào xác định cụ thể ?
Căn cứ vào tư liệu khảo sát bước đầu, làng Cúc Bồ - Kiến
Quốc có nghề mộc làm đình nổi tiếng các đây 200 năm. Người có công tạo dựng
làng thợ là cụ Bùi Đình Chiến đỗ tiến sĩ năm Mậu Dần (1758) là người địa phương
được Triều đình đương thời phong tước: Phó sứ viện Hàn lâm đồng tri phủ trấn
Sơn Nam. Khi còn làm quan cụ đã tìm thợ ở Nam Sang (Lý Nhân - Hà Nam) về dựng
cho làng ngôi đình" Công việc hoàn tất thì tình duyên nẩy nở có hai anh em
thợ họ Trần lấy vợ Cúc Bồ xin gia nhập làng và trở thành những người thợ đầu
tiên của làng nghề Cúc Bồ.
Truyền thuyết của địa phương còn cho biết: Cúc Bồ xưa có
những bãi cói bát ngát ven sông; các bậc phú ông trong làng từng thách thức
trai tráng: anh nào chạy một mạch từ Quán đá đầu làng đến bến Gọc thì mất không
con gái cho, nhưng không ai thắng cuộc. Song một thời (cách đây khoảng 100 năm)
sông Luộc đổi dòng, con nước xoáy trôi đất bờ bên tả sát vào tới đình Cúc Bồ
dồn chuyển sang địa phận Hưng Hà (Thái Bình). Do vậy, các già làng đã quyết
định huy động trai tráng thợ thuyền di chuyển đình vào trong làng như vị trí
ngày nay. Công việc tu bổ, cất dựng diễn ra hàng năm mới hoàn thành.
Trải
qua năm tháng và chiến tranh, ngôi đình đã được tu bổ, tôn tạo nhiều lần. Kiến
trúc hiện còn về cơ bản thuộc lần trùng tu cuối cùng vào năm "Duy Tân, Tân
Hợi, trọng xuân nguyệt trùng tu" (Đình trùng tu vào tháng 2 mùa xuân năm
Tân Hợi niên hiệu Duy Tân), tức năm 1911. Công trình xưa kết cấu theo kiểu chữ
"Công"(J) gồm 7 gian Đại bái, 2 gian Trung từ và 3 gian Hậu cung bằng
chất liệu gỗ lim, điêu khắc "Tứ linh", "Tứ quý"... truyền
thống.
Song
chính thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954), do phong trào cách mạng của
địa phương phát triển mạnh (2) nên sau khi chiếm đóng Ninh Giang
(10/1949) quân giặc đã tổ chức nhiều đợt càn quét khốc liệt nhằm triệt phá cơ
sở kháng chiến. Tháng 1 năm 1950 quân Pháp ép dân làng phá dỡ đình, chùa miếu
để lấy vật liệu xây dựng bốt. Trước tình hình đó, được sự chỉ đạo của Ủy ban
hành chính kháng chiến huyện, nhân dân thôn Cúc Bồ đã khéo léo vừa phá dỡ vừa
bí mật vận chuyển cất giấu một phần kiến trúc và đồ thờ tự đến địa điểm xóm
Trung cùng thôn bảo quản. Đến cuối năm 1952 lực lượng du kích của ta cải trang
(đàn bà đi chợ) bất ngờ tiến công thắng lợi, xóa bỏ bốt giặc tại địa phương.
Sau hòa bình lập lại (1954) nhân dân địa phương tiếp tục
khôi phục một phần di tích để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng. Công trình
mang tính chất tạm thời.
Tiếp
đến các năm 1955 - 1963 khu vực đình trở thành kho lương thực, thực phẩm và kho
vật tư phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp của huyện Ninh Giang. Và từ năm
1964 đến 1988 là nơi hoạt động của nhà trẻ và sân kho hợp tác xã nông nghiệp
địa phương.
Đầu
năm 1989, được sự chỉ đạo của Sở Văn hóa thông tin, Bảo tàng tỉnh Hải Hưng (nay
là Hải Dương) chính quyền địa phương đã động viên toàn thể nhân dân tổ chức
trùng tu đình theo kiểu chữ Đinh trên cơ sở kế thừa kiến trúc miếu Cúc Bồ tạo
thành di tích như ngày nay.
Là
một miền quê được hình thành sớm, nhân dân Cúc Bồ có những phong tục tập quán
tốt gắn liền với di tích và lễ hội.
Hàng năm, từ ngày 14 -
16 tháng giêng nhân dân Cúc Bồ lại tổ chức lễ hội truyền thống tưởng niệm những
anh hùng dân tộc. Vào dịp này, cháu con xa gần nô nức trở về quê hương trong
tình cảm chan hòa hướng về cội nguồn. Lịch trình được tiến hành như sau:
Ngày
14 tháng Giêng, dân làng từ già, trẻ, trai, gái kéo nhau ra đình từ rất sớm để
làm các việc chuẩn bị mở hội gồm có: Bao sái đồ tế tự, dựng cờ, quét dọn đường
"Nghinh thỉnh" từ đình đến miếu để tổ chức rước.
Ngày
15 tháng Giêng là Lễ trọng. Theo lệ cũ cứ ba năm một lần, các giáp Đông, Đoài
Dương và Bắc thay nhau là chủ tế. Lễ vật gồm có lợn, gà đã thịt và xôi oản,
hoa, quả các loại. Theo sự hướng dẫn của các Hương lão, mọi người phân công
nhau đi thành đoàn theo trình tự: Kỳ lân sư tử đi trước, kiệu Hương án tiếp
theo. Kiểu bát cống hiệu Long đình có tàn che lần lượt tiến bước theo nhịp
chiêng trống vang dội. Đoàn người đến miếu dừng lại tổ chức lễ bái qua đêm.
Sáng ngày hôm sau mới tổ chức rước về đình.
Trong
lễ tế, tiết mục đặc biệt là: "Độc chúc văn"; Thường khi đến phần tên
"Húy" thì theo có lệ chiêng trống nổi nên rầm rộ để không cho người
ngoài biết. Ngoài ra hàng ngày trong cuộc sống giao tiếp, nhân dân địa phương
thực hiện kiêng nói, kiêng đặt tên liên quan tới "Húy" của thánh.
Ngày
17 tháng Giêng tổ chức Tạ và đóng chửa đình kết thúc mùa Hội làng.
Cuối
cùng là vào ngày 23/7 Âm lịch hàng năm nhân dân địa phương tổ chức lễ dâng
hương tưởng niệm ngày mất của Khúc Thừa Dụ.
Nằm
giữa làng quê trù mật, đông đúc; đình Cúc Bồ là một công trình kiến trúc khá cổ
kính, từ nhiều thế kỷ qua là nơi sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng hấp dẫn của nhân
dân xã Kiến Quốc cũng như các làng xã phụ cận trong vùng.
Xa xa
nhìn về phía trước đình là một cây Gạo cổ thụ tỏa bóng xuống khu ao Rối khá
rộng. Tiếp đến là những con đường làng như từng dải lụa uốn khúc bao bọc khu
dân cư.
Đình
tọa lạc trên một gò đất cao do được đào đắp qua những lần trùng tu. Tương
truyền địa phương cho rằng: Đình Cúc Bồ được đặt trên thế lưng "Con
Nhện" nên làng "Đa đinh" truyền đời con cháu theo cha ông đi làm
nghề mộc dựng cất đình,
chùa, miếu mạo khắp nơi trong cả nước, gái làng rất tần tảo đảm đang.
Trong
khoảng không gian được xác định, công trình đình Cúc Bồ kiến trúc theo kiểu chữ
Đinh gồm có 5 gian Đại bái và 3 gian Hậu cung. Di tích xây dựng theo hướng Nam
nhìn về sông Luộc.
Từ
ngoài vào là vườn hoa cảnh khuôn viên góp phần tôn thêm vẻ đẹp tổng thể của nhà
Đại bái. Tại hai cột đồng trụ phía trước có đôi câu đối:
"- Vị Nam thiên tranh tự do quyền, tinh vẫn Khâm
Châu oanh khổ tại .
- Chỉ Bắc địa
thệ tòng nhất trí, nguyệt trầm Cúc Thủy nộ đào sinh.
Nghĩa là:
-
Vị trời Nam tranh quyền tự do sao bằng chốn Châu Khâm, còn hào hùng chí khí.
- Cho đất Bắc thề một lòng quyết chí, trăng chìm sông
Cúc, lòng trung hâu luyện nên người.
Nhà Đại bái gồm 5 gian xây kiểu bít đốc, đắp chỉ bổ trụ
đấu. Hai gian đầu hồi xây cuốn cót gắn cửa sổ chữ "Thọ" - Biểu tượng
trường sinh, thể hiện ý nghĩa cầu chúc cho mọi người đều khỏe mạnh, sống lâu.
Mái nhà lợp ngói mũi truyền thống. Đầu kìm đắp nổi hình Lạc Long ngậm bờ nóc,
chính giữa là một cuốn thư đề ba chữ Hán "Thiên cổ tại" với ẩn ý sâu
xa: Tại đây từ ngàn xưa từng rạng danh cơ đồ họ Khúc.
Toàn
bộ kiến trúc trụ trên 12 cột cái, 12 cột quân và 6 cột hiên với chất liệu gỗ
lim tròn vững chắc. Kết cấu vì chính theo kiểu "Giá chiêng, lòng
thuyền" bao gồm: Con cung, con thuận, trụ đầu, câu đầu, xà nách và đầu
bẩy. Các chi tiết kiến trúc được gắn chặt bằng hệ thống mộng thắt đầu cột, xà.
Trên cơ sở đó, lòng nhà được mở rộng theo công thức: "Thượng tứ, hạ
ngũ" cổ truyền. Liên kết 5 gian 6 vì là hệ thống hoành, rui, lá giớ, xà
dọc trên dưới bào soi vỏ măng. Cuối cùng là hệ thống cửa kiểu "Thượng sơ,
hạ mật", khép kín ba gian chính Đại bái.
Để
công trình được tôn nghiêm, các nghệ nhân dân gian xưa đã sử dụng kỹ thuật chạm
khắc bong kênh, chạm lộng các hình tượng "Tứ linh" tại các mảng cốn
gian trung tâm với các tư thế khác nhau. Song yếu tố con người bao giờ cũng gắn
bó với thiên nhiên nên các hình tượng "Tứ linh" ở
đây thường được điểm
xuyết cỏ cây, hoa lá, sóng nước, chim thú hoặc đổi khi "hóa thân" trở
về với thiên nhiên như hình ảnh: Tùng, cúc, trúc, mai "Hóa rồng" thật
đẹp mắt. Đây là một nét đẹp văn hóa phương Đông kết tinh trong kiến trúc nghệ
thuật của di tích.
Nối
liền gian giữa Đại bái về phía sau là Hậu cung gồm 2 vì 3 gian xây bít đốc. Kết
cấu kiến trúc theo kiểu "Giá chiêng, lòng thuyền" bào trơn, đóng bản,
không chạm gì đặc biệt. Tại đây do khoảng gian giữa Đại bái lớn nên lòng nhà
theo công thức "Thượng ngũ, hạ tứ".Nhờ vậy không gian thờ tự Hậu cung
mở rộng, thuận lợi trong việc sinh hoạt tín n gưỡng. Tại các khung xà cột có
một số câu đối bức châm với nội dung như sau:
1- Thiên trụ nãi tôn cẩn nhi lục viên nhi giang, tả hữu
vãng lai chiếm khởi kinh.
- Địa dư dĩ lập cao
sở phủ hậu sơ tái Á, Âu phong vũ dịch lan ma. Nghĩa là:
- Trụ trời tôn sùng kính cẩn, khách từ xa, tả hữu bên sông
vãng lai đến cung kính.
- Đất công đã dựng,
đình nguy nga cao rộng, Á, Âu mưa gió mãi thấm nhuần.
2-
Khúc cộng hủy Cách, Hồng Châu hào trường tự xưng An Nam tiết độ sử, dân kinh
tôn quang chúa (chủ) Bắc triều tiền phong Tĩnh Hải tiết độ sử, hậu phong đồng
bình chương sự.
Lý
triều, Trần triều,, Lê triều, Nguyễn triều giai phong Cúc Bồ xã bản cảnh thành
hoàng thưởng đẳng phúc thần.
Khúc Công hủy Hiển kế thừa tiên hiền Tiết độ sứ dân
kính tôn trung chúa (chủ). Lý triều, Trần triều. Lê triều, Nguyễn triều giai
phong Cúc Bồ xã bản cảnh thành hoàng thượng đẳng phúc thần.
Khúc Công hủy Mỹ kế
thừa tiến nhân sự nghiệp tự xưng Tiết độ sứ. Lý triều, Trần triều, Lê triều,
Nguyễn triều ký tạc công ấn trung tôn anh thanh bảo quốc chi thần.
Nghĩa là:
Khúc công hủy tên là Cách, từng là Hào trưởng đất Hồng
Châu tự xưng là An Nam tiết độ sứ, được nhân dân kính trọng và tôn làm
"Quang chủ Bắc triều". Trước phong là Tĩnh Hải tiết độ sứ, sau phong
là "Đồng bình chương sự". Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê. Nguyễn
đều được phong là: "Bản cảnh thành hoàng Thượng đẳng phúc thần" ở xã
Cúc Bồ
Khúc công hủy tên là Hiển (Hạo) kế tiếp đời các bậc tiên
hiến giữ chức "Tiết độ sứ" được dân kính trọng tôn làm Trung chúa
(chủ). Các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều được phong là "Bản cảnh thành
hoàng Thượng đặng phúc thần" ở xã Cúc Bồ.
Khúc
công tên húy là Mỹ, kế tiếp sự nghiệp các bậc tiền nhân tự xưng là Tiết độ sứ.
Trải qua các triều Lý Trần Lê, Nguyễn đều được ghi tạc công lao. Công ơn được
truy tôn là "Anh thanh bảo quốc chi thần" (Bậc thần trung sáng thanh
liêm có công bảo vệ đất nước"
Bài
trí thờ tự Hậu cung hiện có 1 khám chính thờ Khúc Thừa Dụ và 4 cỗ ngai thờ
Dương Quý Hiển và các vị bách thần bản xã khác. Điều đáng tiếc các bài vị đều
bị mờ hết nội dung nên việc xác định người được thờ đều theo tượng truyền.
Với
cách bố cục kiến trúc cân đối, hài hòa, đình Cúc Bồ đã được các nghệ nhân dân
gian thực hiện khá thành công về kiến trúc nghệ thuật truyền thống. Đây là công
trình văn hóa xứng đáng được bảo vệ lâu dài./.
III.
DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA CẤP TỈNH CHÙA NGỌC CHI, XÃ KIẾN QUỐC
Chùa
Ngọc Chi (Phúc Khánh tự) là di tích lịch sử - văn hoá thuộc thôn Ngọc Chi, xã
Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Chùa nằm tại thôn Ngọc Chi, nên
nhân dân gọi tên di tích theo địa danh. Ngoài ra, chùa còn được gọi theo tên tự
là “Phúc Khánh tự” tức chùa Phúc Khánh với ý nghĩa chùa có nhiều điều tốt lành,
chúc thọ và niềm vui.
Di
tích nằm tại cuối thôn Ngọc Chi, mặt tiền quay về hướng Tây Nam, nhìn ra ao
chùa. Phía Đông giáp đường và khu dân cư; phía Bắc giáp khu dân cư.
Di
tích toạ lạc trên một khu đất cao ráo, thoáng rộng và có hướng phát triển trong
tương lai.
* Vài nét về lịch sử
làng xã:
Thời
Lý - Trần, Ninh Giang gọi là huyện Vĩnh Lại thuộc phủ Hạ Hồng. Năm 1800 có 11
tổng, 107 xã (thôn). Năm Minh Mạng 19 (1838), cắt ba tổng: Đông Am, Ngải Am,
Thượng Am cùng một số xã ở Tứ Kỳ thành lập huyện Vĩnh Bảo. Cắt các xã Phù Tải
từ huyện Thanh Miện và các tổng Thượng Am, Cổ Am, Đông Am từ huyện Vĩnh Bảo sáp
nhập vào huyện Vĩnh Lại. Năm 1900 có 8 tổng, 74 xã, 41.080 nhân khẩu. Năm 1925
phủ Ninh Giang gồm 8 tổng với 74 xã.
Vào
đầu thế kỷ XIX, Ngọc Chi là một xã thuộc tổng Bồ Dương, huyện Vĩnh Lại, phủ
Ninh Giang, trấn Hải Dương. Tổng Bồ Dương gồm 7 xã: An Cúc, Bồ Dương, Cúc Bồ,
Động Trạch, Lũng Quý, Quang Dực và Ngọc Chi.
Sau
Cách mạng tháng 8 năm 1945, thực hiện sắc lệnh của Chính phủ cách mạng lâm thời
về việc bỏ đơn vị hành chính cấp làng (xã), tổng và phủ để thành lập xã mới.
Tháng 2 năm 1946, thôn Ngọc Chi sáp nhập với thôn An Cúc thành một xã mới, lấy
tên là xã Ngọc Cúc. Thôn Cúc Thị sáp nhập với thôn Lũng Quý thành một xã, lấy
tên là xã Tân Mỹ.
Tháng
3 năm 1948, để đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ của cuộc kháng chiến và thực
hiện Quyết định của Uỷ ban KC- HC tỉnh Hải Dương, ba xã: Ngọc Cúc, Tân Mỹ và
Cúc Bồ hợp nhất với nhau thành một xã, lấy tên là xã Kiến Quốc. Xã Kiến Quốc
gồm 5 thôn: Ngọc Chi, An Cúc, Lũng Quý, Cúc Thị và Cúc Bồ.
Tháng
4 năm 1979, huyện Ninh Giang và huyện Thanh Miện hợp nhất thành huyện Ninh
Thanh, xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng.
Tháng
4 năm 1996, huyện Ninh Thanh chia tách và tái lập huyện Ninh Giang và Thanh
Miện, xã Kiến Quốc thuộc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương và tồn tại đến ngày
nay.
Thôn
Ngọc Chi và An Cúc: xưa là một làng gọi là Ngọc Điều Trang (Trang Ngọc Điều),
có tên nôm là làng Dèo, cùng có chung một ngôi đình. Hiện nay, ngôi đình đã bị
hạ giải, chưa khôi phục lại được. Thôn Ngọc Chỉ có chùa Ngọc Chi.
Chùa Ngọc Chi là nơi thờ
Phật theo Thiền phái Đại Thừa, một thiền phái phổ biến tại các ngôi chùa ở miền
Bắc Việt Nam.
Theo
dòng lịch sử, tại chùa có cụ sư Nhân trụ trì. Cụ sư Nhân quê ở thôn Bồ Dương,
xã Hồng Phong, sau khi mất được nhân dân mai táng. Hiện nay, tại chùa có lăng
mộ của cụ.
Căn
cứ vào kết quả khảo sát, điền dã, nghiên cứu, căn cứ vào quy mô kiến trúc và hệ
thống bia ký, câu đối, đại tự hiện lưu giữ tại di tích và lưu truyền trong nhân
dân cho biết: thì chùa Ngọc Chi được khởi dựng từ khá sớm. Trùng tu vào thời Lê
và thời Nguyễn, công trình hiện nay là kết quả của lần đại trùng tu vào năm
1920. Tương truyền, chùa nằm trên trán rồng, hai mắt rồng là hai giếng chùa
(giếng hiện nay vẫn còn).
Công
trình chính có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền đường và 2 gian hậu
cung. Đằng sau chùa (cách chùa khoảng 100m) là miếu Ngọc Chi. (Miếu Ngọc Chi
tôn thờ Thành hoàng làng là Hồng Tế Cự Lân Đô Đại Vương có công âm phù vua Lý
đánh giặc Tống. Miếu có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền tế và 1
gian hậu cung, chất liệu chủ yếu bằng gỗ lim. Năm 1972, miếu được chuyển về làm
trụ sở của Văn phòng Đảng uỷ xã cho đến nay).
Phía Tây chùa có 5 gian
nhà tổ, chất liệu bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi. Phía trước là tam quan uy
nghi.
Năm
1952, 5 gian nhà tổ và tam quan bị giải hạ để lấy gạch xây sân kho hợp tác xã.
Năm
1995, chính quyền và nhân dân địa phương khôi phục nhà tổ với quy mô nhỏ hơn
gồm 3 gian, chất liệu gạch, kiến trúc vì gác tường đơn giản, mái lợp ngói ta và
quay hướng Tây. Cũng năm năm này, nhân dân xây dựng cầu đi vào di tích, tuy nhỏ
nhưng tạo cho không gian di tích thêm đẹp hơn.
Năm
2001, xây dựng cổng. Khuôn viên di tích hiện nay khá khang trang.
Trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tại chùa đã diễn ra nhiều sự kiện
quan trọng của địa phương:
-
Dưới nền hậu cung là hầm bí mật nuôi dấu cán bộ và du kích của xã. Là địa điểm
học tập và huấn luyện của trường Quân chính của Đệ tử chiến khu Đông Triều
chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa cướp chính quyền ở Ninh Giang vào ngày 18 tháng 8
năm 1945 và thành lập chính quyền cách mạng - Là nơi tổ chức các cuộc họp của
chi bộ Đảng địa phương.
- Là
nơi sơ tán của Công binh xưởng, Viện Quân y của tỉnh và Quân khu 3 trong an
toàn khu Hải Dương.
- Là nơi tập trung tiễn
tân binh lên đường nhập ngũ.
Phong tục lễ hội:
Cũng
như những ngôi chùa ở miền Bắc, chùa Ngọc Chi cũng có đầy đủ các lễ tiết trong
năm.
- Ngày 15 tháng giêng lễ
thượng nguyên.
-
Ngày mồng 3 tháng 3 giỗ Mẫu.Trong ngày này, chùa mở hội lớn và có tổ chức tế
lễ.
- Mồng 8 tháng 4 ngày
Phật đản.
- Ngày 15 tháng 7 lễ Vu
lan (lễ xá tội vong nhân).
Ngoài
ra, vào những ngày tuần tiết tại chùa vẫn tổ chức các buổi lễ cúng Phật cầu cho
dân nhân được no ấm, an lành.
Từ
ngoài nhìn vào, chùa Ngọc Chi có kiến trúc kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền
đường và 2 gian hậu cung, xây bít đốc nối liền nhau tạo thành không gian thờ tự
khép kín. Mặt tiền quay về hướng Tây Nam. Công trình hiện nay là kết quả của
lần đại trùng tu vào năm 1920.
Ba
gian tiền đường dài 9,8m, rộng 5,95m, chất liệu bằng gỗ lim bao gồm 4 vì kèo.
Bốn vì kèo này được kiến tạo giống nhau kiểu con chồng giá chiêng, chất liệu
mộc bằng gỗ lim còn khá tốt, cột cái có đường kính 0.28m, cao 4.0m, cột quân có
đường kính 0.23m, cao 2.97m.
Tại
hai vì nách gian trung tâm có hai bức chạm liên hoàn cả hai mặt thay thế cho hệ
thống các con thuận, tạo cho không gian kiến trúc thêm sống động. Một bức một
mặt chạm mai hoá long, ở giữa là cuốn thư với các chữ Hán: “Hoa khai Ưu Bát
chi,Quả kết Bồ Đề thụ” nghĩa là Cành nở hoa Bát Nhã, Cây kết quả Bồ Đề, một mặt
chạm lá hoa long; một bức một mặt chạm cúc hoá long, ở giữa là cuốn thư với các
chữ Hán: “Hoa khai Ưu Bát chi, Quả kết Bồ Đề thự” nghĩa là Cành nở hoa Bát Nhã,
Cây kết quả Bồ Đề, một mặt chạm lá hoá long.
Các
vì kèo là hệ thống giằng ngang của toàn bộ công trình. Mỗi vì kèo bao gồm các
chi tiết: Bẩy hiên, cột quân, xà nách, con thuận 1 khoảng, 2 khoảng, 3 khoảng,
cột cái, câu đầu, trụ đấu...đều được các nghệ nhân tạo dựng kỹ càng, hệ thống
các mang mộng bén khít, không bị xô lệch. Ngoài hệ thống giằng ngang, hệ thống
tiền đường còn có hệ thống giằng dọc, liên kết các vì kèo, đó là hệ thống tàu,
lá mái, xà thượng, xà hạ, gộp mái...Đặc biệt, hệ thống hoàng được bài trí theo
lối “thượng tứ, hạ ngũ” khá chắc chắn. Các hoành vuông được soi chỉ bào nhẵn,
các hoành tròn được tạo dáng thon đều. Thượng lương chắc khoẻ.
Toà
tiền đường chùa Ngọc Chi còn lưu giữ nhiều mảng chạm khắc đạt trình độ nghệ
thuật cao, mang đậm nét kiến trúc truyền thống, thể hiện sự tài hoa của nghệ
nhân xưa. Trên các bẩy hiện và xà nách, con thuận 1 khoảng, 2 khoảng, 3 khoảng
chạm lá hoa long, lá lật. Nét chạm mềm mại mô tả được ý chủ đạo của đề tài.
Phần
nề ngoã: Móng, tường xây bằng gạch chỉ, các chân cột kê bằng đá tảng, mái lợp
ngói mũi truyền thống. Bờ nóc được đắp biển tự với ba chữ Hán mang tên tự của
chùa là “Phúc Khánh tự”. Bờ cánh mềm mại, Tại đây, có các trụ đấu tượng trưng
cho ba thời của nhà Phật: Quá khứ, hiện tại, vị lai.
Hai
gian hậu cung dài 6.0m, rộng 5.85m gồm ba vì kèo. Vì thứ nhất và vì thứ hai có
kiến trúc giống nhau kiểu giá chiêng. Riêng vì kèo thứ ba do bị xuống cấp nặng
nên nhân dân địa phương đã thay thế bằng một thanh kẻ chuyền nối từ hai đầu cột
quân đến thượng lương. Móng, tường xây bằng gạch chỉ, mái lợp ngói mũi.
* Bài trí thờ tự:
Hậu cung chùa Ngọc Chi
hiện nay có 5 lớp tượng thờ:
- Lớp tượng
thứ nhất (từ trên xuống): Gồm ba
pho Tượng Tam Thế. Chính giữa là Tam Thế hiện tại, bên trái là tượng Tam Thế
Quá khứ và bên phải là tượng Tam Thế Vị lai. Ba pho tượng này được tạc cùng một
phong cách và có kích thước giống nhau, được tạc ở tư thế toạ thiền trên đài
sen, hai chân ngồi khoanh tròn, bàn chân phải đặt ngửa lên lòng đùi bên trái,
hai bàn tay lồng vào nhau, hai ngón tay cái chạm vào nhau, thân hình cân đối,
mắt nhắm, tai dài.
- Lớp tượng
thứ hai: Gồm ba pho tượng, chính
giữa là tượng A Di Đà. Tượng A Di Đà được tạc ở tư thế ngồi trên đài sen, đài
sen sơn màu đỏ. Hai bàn chân khoanh tròn, bàn chân phải dài đặt ngửa lên lòng
đùi bên trái, tay phải để ngửa lên đùi phải, ngón cái và ngón út duỗi thẳng,
hai ngón giữa gập vào lòng bàn tay, tay trái đặt ngửa lên lòng bàn chân phải,
ngón cái và ngón thứ hai chạm vào nhau. Thân hình cân đối, sống mũi cao, mắt
nhắm, tai dài. Đây là một pho tượng có kích thước lớn của chùa. Hai bên là
tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí.
- Lớp tượng thứ
ba: Gồm ba pho tượng, chính giữa
là tượng Quan Âm chuẩn đề, được tạc ở tư thế toạ thiền ngồi trên đài sen, có
nhiều đôi tay đỗi xứng nhau. Hai bên là tượng Quan Âm tống tử và Thánh Hiền.
- Lớp tượng
thứ tư: Gồm 03 pho, chính giữa là
tượng Ngọc Hoàng, bên trái là tượng thần Nam Tào và bên phải là tượng thần Bắc
Đẩu. Các pho tượng này đều được tạc ở tư thế ngồi trên bệ giật cấp, hai chân đi
hia, mặc áo long bào và quan triều, sơn son thếp vàng, đầu đội mũ, râu đen dài,
nét mặt nghiêm trang.
- Lớp tượng
thứ năm: Toà Cửu long. Toà Cửu
long được tạo hình nghệ thuật thành nhiều lớp tượng thờ khá sinh động. Giữa toà
Cửu long có tượng Thích Ca sơ sinh tạo hình một bé trai (hài nhi) đứng trên toà
sen, 9 con rồng vây bọc chầu vào trên đầu và ba mặt sau lưng ngài, trên những
đám mây có đủ chư Phật, chư thiên, thiên nữ, nhã nhạc, cờ phướn và bát bộ kim
cương.
Tại
toà tiền đường được bài trí một số pho tượng:
- Nhóm
tượng gian bên trái gồm tượng Đức Ông. Tượng Đức ông được tạc ở tư thế ngồi
trên bệ giật cấp, hai chân mở rộng bằng vai, đi hia mũi cong. Tay phải cầm quạt
đặt lên đầu gối phải, bàn tay trái đặt úp lên đầu gối trái, các móng tay dài,
sơn màu bạc. Cổ cao, mặt nghiêm trang, râu đen, dài. Hai vai tròn, thân hình
cân đối. Tượng mặc áo quan, hai đầu gối và hai vai có đôi rồng chầu, bụng chạm
long mã, ngực chạm hổ phù, hai ống tay áo dài vắt sang hai bên đùi. Đầu đội mũ
cánh chuồn, trước trán có một mặt nguyệt màu vàng, ngực thắt đai. Phía trước
tượng Đức Ông tượng Quan Văn và Quan Võ. Hai pho tượng này có kích thước nhỏ.
-
Nhóm tượng gian bên phải là tượng Mẫu, phía trước tượng Mẫu có hai pho tượng
hầu, kích thước nhỏ.
Ngoài
ra, tại góc hồi bên trái và bên phải của tiền đường có hai ban thờ. Bên hồi
trái là ban thờ tượng Tổ Tây. Tượng Tổ Tây được tạc kiểu Chân dung thể khối, ở
tư thế ngồi trên bệ hình trái núi. Đầu để trần, tóc, râu quai nón đen. Mặt
vuông chữ điền, hai mắt nhìn thẳng. Tượng mặc áo cà sa, cổ áo cài bắt chéo vào
nhau, viền cổ áo chạm hoa văn, tay phải úp xuống gối phải, tay trái để lên gối
trái, bàn tay úp vào phía trong lòng. Hai chân ngồi mở rộng bằng vai, chân phải
đi hia, mũi tròn, chân trái gác lên bệ, bàn chân để trần. Bên hồi phải là ban
thờ tượng Tổ. Tượng Tổ được tạc ở tư thế ngồi trên bệ, đầu để trần, khuôn mặt
vuông chữ điền, mũi cao, môi đỏ, hai mắt nhìn thẳng, cổ cao, tai dài. Tượng mặc
áo cà sa, cổ áo cài bắt chéo, cổ áo trong màu đỏ, hai bàn tay lồng vào nhau để
trong lòng đùi, hai chân khoanh tròn, bàn chân phải để ngửa trên lòng đùi trái.
Để
không gian thờ tự thêm phần thiêng liêng, trang trọng tại toà hậu cung và tiền
đường chùa Ngọc Chi được treo 4 bức đại tự và 2 đôi câu đối ca ngợi đạo pháp và
đức Phật. Xin nêu nội dung của một bức đại tự và một đôi câu đối (nội dung các
bức đại tự và câu đối còn lại xin xem trong tài liệu Hán nôm).
Đại tự:
- Phiên âm: Phúc Khánh tự.
- Dịch nghĩa: Chùa Phúc Khánh
(Chùa có nhiều điều tốt
lành, chúc thọ và niềm vui)
Câu đối:
-
Phiên âm: Tứ hải tâm linh chiêm ngưỡng
Phật.
Thập phương Phật tử nhập
môn không.
-
Dịch nghĩa: Bốn biển tâm linh chiêm
ngưỡng Phật.
Mười phương Phật tử
đến cửa thiền.
Là
một di tích lịch sử Phật giáo, chùa Ngọc Chi được xây dựng từ khá sớm. Trải qua
nhiều biến động của lịch sử, di tích vẫn giữ được kiểu dáng kiến trúc ban đầu
khá nguyên vẹn, kiến trúc kiểu kiểu chữ Đinh (J) gồm 3 gian tiền đường và 2
gian hậu cung. Công trình còn lưu giữ được nhiều mảng chạm khắc đẹp tại vì nách
vì kèo gian trung tâm, xà nách, con thuận, bảy hiện.... Đó là những tiêu bản quí
giúp ta hiểu thêm về kiến trúc cổ Việt Nam./.