DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA XÃ NINH HẢI
HUYỆN NINH
GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG
I.
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP TỈNH ĐÌNH ĐỒNG BÌNH
1.
Khái quát chung
Đình
Đồng Bình là di tích lịch sử - văn hoá thuộc thôn Đồng Bình, xã Ninh Hải, huyện
Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Đình nằm tại thôn Đồng Bình, nên nhân dân địa
phương lấy tên thôn đặt tên cho đình. Đình Đồng Bình gắn liền với tên thôn từ
trong lịch sử.
Đình
Đồng Bình nằm ở đầu thôn Đồng Bình, mặt tiền quay về hướng Đông Bắc. Phía Tây và phía Nam giáp khu dân cư. Di tích toạ lạc trên một khu đất cao
ráo, gần đường và là trung tâm sinh hoạt
tín ngưỡng của nhân dân địa phương.
Thời
Lý - Trần, Ninh Giang gọi là huyện Vĩnh Lại thuộc phủ Hạ Hồng. Năm 1800 có 11 tổng, 107 xã (thôn).
Năm Minh Mạng 19 (1838), cắt ba tổng: Đông
Am, Ngải Am, Thượng Am cùng một số xã ở Tứ Kỳ thành lập huyện Vĩnh Bảo. Cắt các xã Phù Tải từ huyện
Thanh Miện và các tổng Thượng Am, Cổ
Am, Đông Am từ huyện Vĩnh Bảo sáp nhập vào huyện Vĩnh Lại. Năm 1900 có 8 tổng, 74 xã, 41.080 nhân khẩu.
Năm 1925 phủ Ninh Giang gồm 8 tổng với
74 xã. Vào đầu thế ký XIX, Đồng Bình
là một thôn của xã Nhân Lý, thuộc tổng
Xuyên Hử, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, trấn Hải Dương. Tổng Xuyên Hử gồm 6 xã: Bồng Lai, Đông Cao,
Hữu Chung, Nhân Lý, Tiền Liệt và Xuyên
Hử.
Sau
Cách mạng tháng 8 năm 1945, thực hiện sắc lệnh của Chính phủ cách mạng lâm thời về việc bỏ đơn vị
hành chính cấp làng (xã), tổng và phủ để
thành lập xã mới. Thôn Đồng Bình sáp nhập với thôn Bồng Lai và Nhân Lý thành một xã, lấy tên là Bồng Lý.
Tháng
10 năm 1948, để đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ của cuộc kháng chiến hai xã Bồng Lý và Đông Xuyên hợp nhất với nhau thành một
xã, lấy tên là Bình Xuyên. Lúc này,
xã Bình Xuyên gồm 5 thôn: Bồng Lai, Nhân
Lý, Đồng Bình, Xuyên Hử và Đông Cao.
Sau
cải cách ruộng đất năm 1956, xã Bình Xuyên lại tách thành hai xã. Hai thôn Đông Cao và Xuyên Hử hợp nhất
thành một xã, vẫn giữ nguyên tên cũ
là Đông Xuyên. Còn các thôn: Đồng Bình, Bồng Lai và Nhân Lý hợp nhất là một xã, lấy tên Ninh Hải.
Tháng
4 năm 1979, huyện Ninh Giang và huyện Thanh Miện hợp nhất thành huyện Ninh Thanh, xã Ninh Hải thuộc huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng.
Tháng
4 năm 1996, huyện Ninh Thanh chia tách và tái lập huyện Ninh Giang và Thanh Miện, xã Ninh Hải thuộc
huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương và
tồn tại đến ngày nay.
Về
vị trí địa lý xã Ninh Hải: Phía Đông
giáp xã Tân Hương; Phía Tây giáp xã
Hồng Phong và Kiến Quốc; Phía Nam
giáp xã Hồng Dụ; Phía Bắc giáp xã
Đông Xuyên và Vạn Phúc.
Xã
Ninh Hải có diện tích tự nhiên là 544,28 ha, dân số 7505 người, riêng thôn Đồng Bình có diện tích 47 ha, dân
số 1223 người, 338 hộ (tính đến tháng 05 năm 2023), trong đó có khoảng trên 600
người theo đạo Công giáo (tính đến tháng 05 năm 2023).
Trong
quá trình tạo dựng quê hương, người dân Ninh Hải đã hun đúc nên những truyền thống lịch sử, văn hoá quý báu. Đó là những giá
trị tinh thần và vật chất. Xưa kia
thôn nào ở Ninh Hải cũng có đình, chùa, nhưng trải qua thời gian và chiến tranh, nhiều công trình tín ngưỡng,
tôn giáo đã bị tàn phá. Hiện nay, ở
Ninh Hải các công trình còn lại là đình, chùa Bồng Lai (đã được xếp hạng cấp tỉnh năm 2009), nghè Bồng Lai (thôn Bồng
Lai); nhà thờ giáo họ Đồng Bình,
đình Đồng Bình, nghè Đồng Bình (thôn Đồng Bình); chùa Bụt Mọc, đình Nhân Lý (thôn Nhân Lý). Gần đây mới xây dựng
chùa Đông Hải trên nền chùa cũ của thôn Đồng Bình.
Ninh
Hải là một địa phương có nhiều di tích lịch sử - văn hoá, chính quyền và nhân
dân địa phương đang từng bước giữ gìn, trùng tu, tôn tạo nhằm phát huy giá trị
của di tích, đáp ứng được cuộc sống tinh thần của đông đảo quần chúng nhân dân.
Về
thăm di tích đình Đồng Bình, du khách có thể xuất phát từ trung tâm thành phố Hải Dương theo hai tuyến đường:
Tuyến
thứ nhất từ ngã ba đường Vòng (Hải Tân - Thành phố Hải Dương) gặp đường 391 đi
thẳng đến thị trấn Tứ Kỳ. Từ đây, rẽ phải qua cầu Vạn tới quốc lộ 37, đi tiếp 1km qua cầu Ràm, rẽ phải theo đường
liên xã qua xã Tân Hương, Đông Xuyên
là tới xã Ninh Hải, qua UBND xã khoảng 2
km là tới thôn Đồng Bình - nơi có di tích.
Tuyến
thứ hai theo từ Hải Dương đi qua thị trấn Gia Lộc về thị trấn Ninh Giang cách 3 km, rẽ phải theo đường 396 đến cầu Dầm.
Từ đây, rẽ phải theo đường liên xã
khoảng 4,5 km là đến thôn Đồng Bình - nơi
có dị tích.
Cả
hai tuyến đường đều phù hợp với mọi phương tiện giao thông phố biến như: Ô tô, xe máy.
2.
Nhân vật được thờ
Căn
cứ vào kết quả điền dã, nghiên cứu; Căn cứ vào hệ thống câu đối, đại tự, quyển thần tích bằng chữ hán
do Hàn lâm Viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn
Bính phụng soạn vào mùa Xuân năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), nội các Bộ Lại tuân theo bản chính phụng
viết vào tháng 8 mùa thu Hoàng triều
Vĩnh Hựu thứ 6 (1740) hiện lưu giữ tại di tích; Thần tích - thần sắc năm 1938 Viện thông tin khoa học xã hội,
và lưu truyền trong nhân dân cho biết:
Đình Đồng Bình tôn thờ Thành hoàng làng là
Đào Vinh Công có công giúp nhà Trần đánh giạc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII, đem lại thái bình cho đất nước.
Thân thế và sự nghiệp của vị Thành hoàng
làng được tóm tắt như sau:
Nước
Việt xưa triều Trần Nhân Tông (huý Khâm) (1279 - 1293) - là con trưởng của Trần Thánh Tông Hoàng đế kế
thừa ngôi báu, Cha truyền con nối đất
nước đều bình an thịnh trị. Trong nước tu văn tích đức, ngoài biên cương cẩn mật canh phòng, hết lòng bảo vệ
cho sự bình yên của đất nước. Bấy giờ, ở
Phao Sơn (thuộc Trúc Thành, Vĩnh Lạc, Phả Lại) có người con gái họ Đào, tên là Hiển nương đang tuổi 18, phong tư yếu
điệu, nhan sắc tuyệt trần, mắt phượng
mày ngài, mặt hoa da phấn, môi đỏ như son, mười phần xuân sắc. Lương duyên chưa định mà thân mẫu đã
qua đời. Nương vốn lấy nghề thương nghiệp
để sinh nhai, Hôm đó, Nương ra tắm ở bến sông Lục Đầu, bỗng nhiên trời đất tối sấm, mây mù bốn phía, tự
nhiên rồng rắn quấn quanh người Đào nương,
Đào nương vô cùng hoáng sợ liền chạy lên bờ, lại thấy mưa to gió lớn, sóng xô dữ dội, sấm sét ầm ầm. Trong
chốc lát, trời quang mây tạnh. Nương trở
về nhà. Thật là kỳ lạ, từ đó Nương thấy mình có thai. Đến ngày 15 tháng 02 năm Nhâm Thìn, Nương sinh được một
cậu con trai thiên tư kỳ dị, thể diện khôi
ngô, khác hẳn người thường. Nương vô cùng yêu mến cho là “phúc hữu trùng lai”, hẳn
là trời ban cho vậy. Ngày qua tháng lại, Công đã được 3 tuổi, liền đặt tên là Vinh. Khi Vinh công
lên 7 tuổi cho theo học bậc tiên sinh họ
Trần. Đến năm Công 17 tuổi, thiên tư cao lớn, lực học tính thông, đọc thuộc binh thư, tài năng võ nghệ cao cường.
Năm Công 19 tuổi, thân mẫu Đào thị tự nhiên
không bệnh mà qua đời. Công chọn nơi đất tốt để an táng. Ba năm đoạn tang, lúc
này có giặc Nguyên - Đại tướng Toa Đô và Ô Mã Nhi mang 15 vạn quân sang nước ta, giả bộ nói rằng mượn
đường đánh Chiêm Thành, chia thành 5
đạo thuỷ bộ cũng tiến vào xâm lược nước ta. Binh thư cáo cấp báo về. Vua Trần Nhân Tông vô cùng lo lắng, liền
hạ chiếu lệnh cho các bậc văn võ anh
tài, anh hùng tài giỏi ở các đạo, châu, huyện dẫn quân đến triều đình nhận quan tước để tham gia đánh giặc. Ngay
hôm đó, các đạo vừa nghe được lệnh của
Nhân Tông Hoàng Đế truyền đến, lập tức văn võ khắp nơi về triều hội nghị. Lúc này, xứ Phao Sơn cũng dâng sớ
tâu lên có Đào Vinh công tài năng võ
nghệ siêu quần. Công lập tức chiêu mộ dân binh trong làng được hơn hai nghìn người, dẫn đến thành đô ứng tuyển.
Nhân Tông tuyển chọn người tài thao
lược, thấy Công văn võ toàn tài liền phong làm “Đô Nguyên soái Đại tướng quân”,
còn binh xĩ kết thành các đội.
Hôm
đó, Nhân Tông liền hội đồng tướng sĩ
và các quần thần để bàn kế đánh giặc. Trần Quốc Tuấn liền tâu rằng: “Bệ Hạ uy danh, ân đức bạn đến tận
miền hải ngoại, nay nước phú binh cường. Và lại, lòng trời lắm phúc giáng xuống
nhiều bậc anh tài như Trần Quang Khải, Đào Vinh Công, họ như bách thần Sông
núi, thường năng xuất hiện, âm phù trợ giúp, bệ hạ hà tất phải lo gì! Thần xin
giao phó cho hai Công dẫn binh trước tuần phòng các đạo, để làm chấn động quân thanh.
Còn thần tuyển chọn tướng tài, như vậy giặc Nguyên không quá một ngày sẽ bị dẹp
tan”. Vua thấy vậy vô cùng mừng rỡ, liền phong cho Trần Quốc Tuấn làm “Hưng Đạo Vương”, phong
cho Trần Quang Khải làm “Tiết chế Thượng tướng quân”, phong
Đào Vinh công làm “Đô thống chế Thượng
tướng quân”, Bấy giờ, Vua uỷ phó cho Vinh công dẫn hơn hai nghìn quân kiêm thuỷ bộ đi trước tuần phòng
đạo Hải Dương. Ngay hôm đó, Công bái
tạ trước Vua và dẫn hơn hai nghìn quân tiến trước. Trên đường tiến quân, tinh kỳ rợp đất, trên thuyền bè chiêng
trống dậy trời. Hai ngày đêm đến trại Đồng
Bình, trang Nhân Lý, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, đạo Hải Dương (xưa gọi là Hồng Châu, tục gọi là
Doanh Dậu) thì trú quân tại đó. Sáng hôm
sau, Công thấy thế đất một vùng sông núi bao quanh, rồng quỳ hổ phục, núi không cao nhưng sơn thuỷ hữu tình,
sông Hồng bao bọc càng tôn thêm phong cảnh
đẹp để phong quang. Ngay hôm đó, Công truyền cho binh sĩ cùng nhân dân trong trại xây dựng một doanh đồn
để ứng phó với Nguyên binh. Lúc này, phụ
lão nhân dân trại Đồng Bình ai nấy đều kính ngạc, liền hành lễ xin làm gia thần tôi con. Công bằng lòng, tuyển
chọn được 10 người trong trại làm gia thần.
Thế là, phụ lão gia thần đều tâu rằng: “Người lấy uy đức quy phục thì nhân dân đều
được an nghiệp. Nhân đây, nay xây dựng làm đồn, ngày sau làm nơi phụng thờ”,
Công bằng lòng, bèn nói với phụ lão gia thần: “Trại các Ngươi có hậu phúc coi
trọng ta, ta để mệnh lại vạn năm sau trại các Ngươi phụng thờ”. Liền bạn
cho phụ lão, gia thần hoàng kim (vàng) hai (02) hốt để mua ruộng đất ngày sau tế
tự. Ngay hôm đó, Công truyền cho thiết yến mời nhân dân phụ lão, gia thần
các trang, khu, trại đến dự yến tiệc. Sáng hôm sau, thấy sứ phụng mệnh Vua
mang chiếu thư vời Công về kinh đô để cùng các tướng sĩ hội bàn kế đánh
giặc Nguyên. Ngay hôm đó, Công liền dẫn binh trở về kinh đô cùng Hưng Đạo
Vương và các tướng hội nghị. Vua liền uỷ phó cho các tướng phân đường tiến
quân đánh giặc. Công cùng các tướng lãnh binh dẫn theo các ngả. Một đạo
đề binh tiến đến ải Chi Lăng, một đạo tiến đến đồn Vạn Kiếp, đồn Chương
Dương cùng quyết chiến với giặc Nguyên một trận. Đuổi giặc đến tận sông Bạch
Đằng, chém được tướng giặc Toa Đô và Ô Mã Nhi, những tên sống sót chết chìm
không sao kể xiết. Thấy giặc chất thành núi, máu chảy thành sông. Quân ta
thu được vũ khí, binh lương nhiều vô kể. Quân Nguyên thất bại nặng nề, Từ
đó, thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự. Hưng Đạo Vương liền hành biểu tâu
lên Nhân Tông Hoàng Đế, Hoàng Đế liền ban chiếu vời Công về triều mở tiệc lớn
chúc mừng. Ban thưởng cho các tướng sĩ theo từng thứ bậc. Vua cho phép
vương công được hưởng thực ấp ở đạo Hải Dương. Ngay hôm đó, Công bái tạ vua
trở về cố hương, giết trâu bò lợn thiết yến bái yết thiên địa bách thần, mời
phụ lão gia thần các trang khu đến dự yến tiệc. Hôm sau, Công về nơi được hưởng
thực ấp ở đạo Hải Dương. Công xuống thuyền rồng về đến sông Lục Đầu
thì bỗng nhiên trời nổi cơn giông tố. Một đám mây vàng như hình giải lụa
từ trên trời bay thẳng xuống thuyền, rồi thuyền từ từ chìm hẳn (hôm đó là
ngày15 tháng 8) Công hoá (chết). Trong khoảnh khắc, mưa gió mịt mù, sóng
xô dữ dội, giao long, thuồng luồng, ba ba đều nổi lên mặt nước. Một lúc sau,
trời quang mây tạnh, sĩ tốt nhân dân gia thần đều lấy làm kinh ngạc, liền
hành biểu tâu lên Nhân Tông Hoàng đế. Vua sai lập miếu để phụng thờ, lại sai
sứ sắc phong nguyên phụng thờ thần hiệu.
Nhất
phong “Đào Vinh công hiển ứng Đại vương”. Tặng phong “Tế thế,
hộ quốc, khang dân, phù tộ bản cảnh, hiển hựu, hùng kiệt, anh linh Đại vương
thượng đẳng Thần” - (Vị thần bậc thượng đẳng là bậc Đại vương anh
hùng, tài giỏi, tốt đẹp, linh thiêng, có công che chở cho thế gian, giúp nước,
giữ dân khỏe mạnh, bảo vệ xóm làng bình yên, linh thiêng hiển ứng).
Vua
lại cho phép khu Đồng Bình, trang Nhân Lý phụng thờ ngài mãi mãi. Truyền
rằng: Từ đó về sau, ngài đều linh thiêng hiển ứng, cho nên trải qua
các triều đại đều được các bậc đế vương phong thêm mỹ tự, cho phép khu Đồng
Bình, trang Nhân Lý phụng thờ mãi mãi. Kính thay!
Đến
triều Trần Dụ Tông (1341 - 1369) thấy ngài có công lao to lớn đối với
triều Trần, liền phong thêm mỹ tự “Nhất vị linh ứng, anh triết, hiển hựu, trợ
thuận Đại vương” - (Một vị Đại vương linh thiêng hiển ứng, thông minh, sáng
suốt, tài giỏi, hiện lên phù giúp mọi việc thuận lợi theo ý nguyện). Lại cho
phép khu Đồng Bình, trang Nhân Lý phụng thờ ngài mãi mãi.
Đến
thời Lê Thái Tổ (1428 - 1433), khởi nghĩa dẹp giặc Minh - Liễu Thăng,
lấy được thiên hạ. Thái Tổ lại phong thêm mỹ tự. “Nhất vị phổ tế, cương nghị, anh
linh, hùng kiệt Đại vương” - (Một vị Đại vương che chở rộng
khắp, cứu giúp muôn nơi, cứng rắn, nghị lực, anh hùng, tài giỏi, linh thiêng
hiển ứng). Sắc chỉ ban cho khu Đồng Bình, trang Nhân Lý trùng tu miếu
điện đề phụng thờ mãi về sau.
Phụng
khai sinh hoá tịch các tiết cùng chữ huý như sau: Nhất thiết cấm kỵ
chữ “Vinh”.
Cho phép khu Đồng Bình phụng thờ việc tế tự.
Nhất
sinh Thần ngày 15 tháng 02, chính lệ lễ dùng thượng bàn chay, hạ bàn
thịt lợn đen, xôi, rượu, ca hát 3 ngày.
Nhất
hoá thần (chết) ngày 15 tháng 8 chính lệ lễ dùng thượng bàn như trước,
hạ bàn có thể thịt trâu, lợn, xôi, rượu, bánh dầy.
Về
sau phụ lão thôn Đồng Bình, xã Nhân Lý, tổng Xuyên Hử, huyện Vĩnh
Lại, phủ Ninh Giang phụng khai là:
Ngoài
3 đạo sắc do Trần Nhân Tông, Trần Dụ Tông, Lê Thái Tổ (đã phong ở trên), còn có sắc
phong của triều Nguyễn:
-
Đồng Khánh phong “Dực Bảo Trung Hưng”.
-
Duy Tân cho phép thôn thờ như trước.
Do
có công lao với đất nước nên Thành hoàng Đào Vinh Công được các triều đại phong
kiến ban sắc ghi nhận công lao. Hiện nay, tại đình Đồng Bình hiện chỉ còn lưu
giữ được một đạo sắc phong thời Nguyễn, đó là:
Sắc
cho thôn Đồng Bình, xã Nhân Lý, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương
phụng thờ “Trần triều Nguyên soái Đại tướng quân Đào Vinh công tôn thần” -
(Vị Thần tôn kính Đào Vinh công là Nguyên soái Đại tướng quân triều Trần),
có công giúp nước, che chở cho dân, linh thiêng hiển ứng. Đến nay, đúng dịp
Trẫm vừa tròn 40 tuổi, lễ lớn chúc mùng, từng ban cho chiếu báu, ban ân rộng
rãi, lễ long trọng có phong tước vị. Nổi tiếng được phong là: “Đoan
túc dực bảo Trung Hưng tôn Thần” - (Vị Thần tôn kính ngay
thẳng, cung kính có công giúp đỡ bảo vệ thời Trung Hưng). Cho phép xã phụng
thờ thần như tước, thần sẽ giúp đỡ bảo vệ dân lành của ta. Kính thay!
Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ
9 (1924)
Đình Đồng Bình
không chỉ là nơi thờ Thành hoàng làng mà trong kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, nơi đây đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương:
-
Là địa điểm hội họp của bộ đội, công an, dân công, du kích của huyện và
địa phương,
-
Là nơi mở lớp học của trường cấp I xã Ninh Hải.
3. Phong tục lễ
hội
Dưới
thời phong kiến, hàng năm tại đình Đồng Bình có các ngày lễ, hội như sau:
+
Ngày 15 tháng giêng âm lịch: Lễ thượng nguyên (lễ cầu mát)
+
Ngày 15 tháng hai âm lịch: Kỷ niệm ngày sinh của Thành hoàng làng Đào Vinh
Công. Diễn ra trong hai ngày từ ngày 14 đến ngày 15. Ngày 14 sửa soạn, bao sái
đồ thờ, chồng kiệu, dọn dẹp đường làng ngõ xóm phong quang sạch đẹp. Chiều làm
lễ cáo yết (còn được gọi là lễ trình) xin mở lễ hội. Sáng ngày 15, tổ chức tế.
Tế 3 tuần rượu. Những người được dự tế phải mặc áo thụng màu lam. Lễ vật gồm
có: Lợn, gà, xôi, rượu, hoa quả.
Làng
xưa có hai giáp: Giáp Trong và giáp Ngoài. Theo hương ước của làng các giáp đều
được giao ruộng công để đến ngày lễ hội, các giáp phải chuẩn bị lề vật gồm lợn,
gà, xôi, rượu, hoa quả ra lễ Thành hoàng, sau chia lộc cho các hộ trong giáp.
+
Ngày 15 tháng tám âm lịch: Kỷ niệm ngày mất của Thành hoàng làng Đào Vinh Công.
Diễn ra trong hai ngày từ ngày 14 đến ngày 15, hình thức tổ chức lễ hội cũng giống
như tháng hai.
Ngày
nay, lễ hội đình làng Đồng Bình vẫn được tổ chức và duy trì các ngày lễ, lễ hội
như trước nhưng hình thức có phần đơn giản hơn nhưng cũng đáp ứng được cuộc sống
tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân.
4. Kiến trúc
Căn
cứ vào kết quả khảo sát, điền dã tại di tích, căn cứ vào hệ thống câu đối, đại
tự, thần tích - thần sắc, các tài liệu có liên quan và lưu truyền trong nhân dân
cho biết: Đình Đồng Bình được xây dựng từ khá sớm, ở gần bờ sông Dầm, lúc đầu
các công trình còn đơn sơ, chất liệu chủ yếu bằng tre nứa, mái lợp rạ. Sau có
giặc Cống Chỉnh, dân làng mới chuyển ngôi đình về vị trí như hiện nay.
Công
trình hiện nay nằm ở giữa thôn Đồng Bình, mang phong cách thời Nguyễn, là kết quả
của lần trùng tu lớn vào năm 1948. Trên câu đầu của toà đại bái có khắc dòng chữ
Hán ghi rõ về điều này như sau: “Việt Nam dân chủ cộng hoà tự do hạnh phúc tứ
niên trùng tu tuế thứ Mậu Tý trọng Đông cát nhật lương thời thụ trụ thượng
lương” nghĩa là Việt Nam dân chủ cộng hoà tự do hạnh phúc năm thứ 4 (1948), giờ
tốt ngày lành tháng 11 giữa mùa Đông năm Mậu Tý trùng tu dựng trụ thượng lương
rất tốt đẹp. Công trình hiện nay có kiến trúc kiểu chữ Định (J) gồm 3 gian đại
bái và 2 gian hầu cung, quy mô không lớn song kết cấu tương đối đồng bộ.
Kết
cấu chính của phần mộc là các vì kèo, hệ thống xà và các con thuận. Ba gian đại
bái dài 9,3m, rộng 4,95m gồm 4 vì kèo, các vì kèo này có kiến trúc giống nhau,
kiểu “con
chồng giá chiêng” truyền thống. Các chí tiết mộc trên 4 vì kèo có kích
thước nhỏ: cột cái có đường kính 0,22m, cao 3,48m; cột quân 0.2mm, cao 2,72m,
câu đầu, trụ, các con thuận đều có kích thước nhỏ. Bốn vì kèo là hệ thống giằng
ngang của toàn bộ công trình. Mỗi vì kèo bao gồm các chi tiết: Bẩy hiên, cột
quân, xà nách, con thuận 1 khoảng, 2 khoảng, 3 khoảng, cột cái, đầu dư, câu đầu,
trụ đấu, con vành... đều được các nghệ nhân tạo dựng kỹ càng, hệ thống các mang
mộng bén khít, không bị xô lệch. Ngoài hệ thống giằng ngang, đại bái còn có hệ
thống giằng dọc, liên kết các vì kèo, đó là hệ thống tàu, lá mái, xà thượng, xà
hạ, gộp mái... Đặc biệt hệ thống hoành được bài trí theo lối “Thượng
tam hạ tứ” khá chắc chắn. Thượng lương chắc khoẻ và được soi chỉ kép
nghệ thuật. Chất liệu của công trình chủ yếu là gỗ tứ thiết còn tốt.
Tại
toà đại bái đình Đồng Bình còn lưu giữ nhiều mảng chạm khắc đạt trình độ nghệ
thuật. Như dãy bẩy hiên chạm các bức lá hóa long. Trên các xà nách, trụ đấu,
con thuận 1 khoảng, 2 khoảng, 3 khoảng, giường bụng lợn chạm lá hóa long và lá
lật. Các đầu dư ở vì hai vì kèo gian trung tâm chạm rồng, miệng ngậm viên ngọc
mang phong cách thời Nguyễn. Và cũng tại vì nách của hai vì kèo này có hai bức
chạm liên hoàn cả hai mặt, một mặt chạm lá hoá long, một mặt chạm độc long.
Thông qua các bức chạm khác này, chúng ta thấy được sự sáng tạo trong nghệ thuật
truyền thống mà ông cha ta để lại. Đó là những tiêu bản quí giúp chúng ta khôi phục
các công trình cùng thời.
Móng
tường xây bằng gạch chỉ, mái lợp ngói vảy cá truyền thống. Bờ nóc được đắp phù
điêu lưỡng long chầu nguyệt. Bờ cánh mềm mại.
Nối
liền toà đại bái là tòa hậu cung 2 gian, dài 3,4m; rộng 4,2m, gồm 3 vì kèo. Vì
thứ nhất có kiến trúc kiểu con chồng thước thợ, tại vì nách có hai bức chạm lá
hóa long. Vì thứ hai được kiến tạo một bức chạm theo đề tài lưỡng long chầu
nguyệt, vừa có tác dụng đỡ tàu mái, thay thế các chi tiết như rường bụng lợn, đấu
kê...vừa tạo cho không gian kiến trúc thêm sống động. Vì thứ ba có kiến trúc kiểu
kèo cầu trụ báng. Móng, tường xây bằng gạch chỉ. Mái lợp ngói vảy cá truyền thống.
Đình
Đồng Bình là nơi tôn thờ Thành hoàng làng Đào Vinh Công. Có công giúp nhà Trần đánh giặc Nguyên Mông vào thế kỷ XIII, đem lại
thái bình cho đất nước. Nghiên cứu
thân thế và sự nghiệp của vị Thành hoàng giúp chúng ta hiểu hơn về một thời kỳ lịch sử oanh liệt với những chiến
công hiển hách của thời Trần với ba
lần đại thắng quân Nguyên xâm lược đồng thời thiết thực đẩy mạnh giáo dục truyền thống yêu quê tường, đất nước cho
cán bộ, nhân dân. Trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tại dí tích đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương.
Đình
Đồng Bình hiện còn lưu giữ được một số mảng chạm khắc đạt trình độ nghệ thuật cao. Thông qua quy mô công trình, giúp ta hiểu
thêm kiến trúc truyền thống, sự tinh
tế trong trang trí, hợp lý trong kết cấu. Công trình còn tồn tại đến ngày nay, là tiêu bản quý để khôi phục, tôn tạo,
trùng tu các di tích cùng thời.
Hiện
nay, di tích còn lưu giữ được một số cổ vật có chất liệu gỗ và giấy. Đặc biệt là một bản thần tích bằng chữ
Hán và 1 sắc phong vào năm Khải Định
thứ 9 (1924). Các cổ vật này không chỉ có giá trị về niên đại mà nó còn có giá trị về mặt văn bản, giúp chúng
ta nghiên cứu lịch sử Việt Nam và chế độ
phong kiến Việt Nam. Đây là nguồn tư liệu quý về lịch sử di tích cũng như địa phương cần được bảo tồn,
nghiên cứu lâu dài.
Xuất
phát từ những nội dung giá trị nêu trên đình Đồng Bình, xã Ninh Hải, huyện Ninh
Giang, tỉnh Hải Dương được xếp hạng di
tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh năm 2011.
Đình
Đồng Bình được trùng tu vào các năm 1948, 1981, 1993 và những năm gần đây là năm 2019 tu bổ lại đình
làng và xây mới Nghi môn, công trình không lớn song kết cấu tương đối đồng bộ,
nhìn chung các hạng mục còn khá bền
vững./.
II.
CỤM DI TÍCH LS - VH CẤP TỈNH ĐÌNH - CHÙA BỒNG LAI
1. Khái quát chung
Bồng Lai là mảnh đất được hình
thành khá sớm trong lịch sử. Trước cách mạng tháng 8/1945, Bồng Lai (còn có tên
gọi khác là Bồng Tang,
Bồng Lợi) là một xã thuộc tổng Xuyên Hử, huyện Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải
Dương. Nay Bồng Lai là một trong 3 thôn của xã Ninh Hải, huyện Ninh Giang, tỉnh
Hải Dương.
Cùng với tên gọi trên, chùa Bồng Lai
còn có tên gọi là "Sùng Quang Tự" tức chùa Sùng Quang. Theo dòng lịch sử,
tên đình và chùa gắn liền với tên thôn Bồng Lai một cách tự nhiên.
Hai di tích liền sát nhau trên một
thửa đất, nên chúng tôi thống nhất viết chung gọi chung là: đình, chùa Bồng
Lai.
Đình - chùa Bồng Lai nằm trên một
khu đất cao ráo, thoáng rộng tại vị trí giữa thôn Bồng Lai. Mặt tiền của đình
quay hướng Nam, nhìn ra hồ tròn 7 mẫu của thôn, phía Đông giáp đường, phía Bắc
và phía Tây giáp khu dân cư.
Vào
thế kỷ XIX, Bồng Lai là một trong 6 xã thuộc tổng Xuyên Hử, huyện Vĩnh Lại, phủ
Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Tổng Xuyên Hử gồm các xã: Bồng Lai, Đông Cao, Hữu
Chung, Nhân Lý, Tiên Liệt và Xuyên Hử.
Sau
cách mạng tháng 8 năm 1945, các xã đều chuyển thành thôn và đơn vị tổng bị bãi
bỏ, do đó xã Bồng Lai chuyển thành thôn Bồng Lai và sáp nhập với một số thôn
khác thành lập xã mới, lấy tên là xã Ninh Hải.
Về
thăm di tích đình - chùa Bồng Lai, du khách có thể xuất phát từ trung tâm thành
phố Hải Dương theo hai tuyến đường: Tuyến thứ nhất theo đường 17 đến ngã ba đường
Vòng (Hải Tân - TP Hải Dương) gặp đường 391 đi thẳng đến thị trấn Tứ Kỳ. Từ
đây, rẽ phải qua cầu Vạn tới quốc lộ 37, đi tiếp 1km qua cầu Ràm, rẽ phải theo
đường liên xã qua xã Tân Hương, Đông Xuyên là tới thôn Bồng Lai - nơi có di
tích. Tuyến thứ hai theo đường 17A từ Hải Dương đi qua thị trấn Gia Lộc về thị
trấn Ninh Giang cách 3km, rẽ phải theo đường 396 đến cầu Dầm. Từ đây, rẽ phải
theo đường liên xã khoảng 2,5km là đến thôn Bồng Lai - nơi có di tích.
Cả
hai tuyến đường đều phù hợp với mọi phương tiện giao thông phổ biến như: Ô tô,
xe máy.
2. Sự kiện, nhân vật được thờ
*
Nhân vật được thờ tại đình
Căn
cứ vào thần tích do Hàn lâm viện Nguyễn Bính phụng soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), Quản giám bách thần trì điện
hùng lĩnh thiếu khanh (thần) Nguyễn
Hiền phụng sao vào năm Hoàng triều Vĩnh Hựu
thứ 6 tháng 8 mùa thu ngày lành (1740); Căn cứ vào hệ thống câu đối, đại tự, tài liệu lưu trữ tại Viện
thông tin khoa học xã hội cho biết: Đình
Bồng Lai tôn thờ Thám hoa Lương Như Hộc- ông tổ của nghề khắc ván in mộc bản, có công giúp vua Lê Thái Tông
(1434 - 1442) hai lần đi sứ phương Bắc,
giữ yên đất nước. Thân thế và sự nghiệp của ông có thể tóm tắt như sau:
Xưa,
triều Lê Thái Tông (tên huý là Nguyên Long) ở trang Hồng Liêu (Liễu), Gia Lộc (xưa gọi là Trường Tân, sau đổi là Gia Phúc),
phủ Hạ Hồng (sau đổi là Ninh Giang),
đạo Hải Dương (xưa gọi là Hồng Châu, tục
gọi là Doanh Dậu), có người họ Lương, tên huý là Hồng, lấy vợ người bản quận tên là Đào Thị Tuyết, vốn gia
đình dòng dõi thi lễ, luỹ thế trâm anh, thực
xứng với ông khoá đồng giỏi nghề thầy thuốc. Hàng ngày, lấy đó làm kế sinh nhai dần dần trở nên giàu có.
Ông bà giầu lòng nhân đức, tuổi đã cao
mà chưa có con, liền tìm đến nơi danh lam thắng cảnh, đền thiêng danh động công đức trùng tu cầu đảo. Một
hôm, ông nghe tin trong quận trang Bồng
Lai có miếu thờ thần rất linh ứng, cầu được như ý, xin nguyện hết lòng đi theo. Ông bà sắm sửa đầy đủ lễ
vật tiền hương, tìm đến nơi tiến lễ cầu
âm phù, nguyện mong thần linh thiêng giáng phúc. Ông bà lại đi du ngoạn xung quanh, xong thì trời đã xế
chiều, không kịp về nhà liền nghỉ lại trong
miếu. Đêm đó, đến cuối canh ba, Đào thị bỗng nhiên mộng thấy một ông lão áo mũ chỉnh tề, hình dáng cao
lớn từ trong đường miếu đi ra tự xưng:
“Ta
vốn là dòng dõi con cháu hào kiệt nhà Hùng, linh thiêng phụng mệnh thiên đình
làm Thành hoàng nơi này ở miếu sở, tên tự là “Linh thông cảm ứng chỉ Thần”. Nhà
khanh giầu lòng nhân đức, trời đã thấu tỏ, nay định cho ta giáng sinh xuất thế
đầu nhập vào bào thai”, nói xong
biến mất. Lại thấy một dải hào quang bay quấn xung quanh. Ông thầm nghĩ trong mộng tất có điềm lành.
Sáng hôm sau, ông bà dâng lễ bái tạ
rồi trở về nhà. Từ đó Đào thị có thai. Đến ngày 6 tháng giêng năm Nhâm Dần, bà sinh hạ được một người con
trai thiên tư kỳ lạ, diện mạo khôi ngô. Năm
lên 3 tuổi, đặt tên là Lương Như Hộc. Năm lên 7 tuổi, cho vào học thầy Lã tiên sinh. Năm lên 16 tuổi, thiên tư
cao lớn, lực học tinh thông, đọc thuộc binh
thư, tài năng kỹ nghệ phi thường. Năm: 19 tuổi, cha mẹ chẳng may qua đời, Công
liền chọn nơi đất tốt để làm lễ an táng gia đường, phụng thờ ba năm. Phục tang xong, Công nhủ lòng học
để giáo hoá dân chúng. Một hôm, Công
đến trang Bồng Lai, huyện Vĩnh Lại bản phủ, thấy khu trang có thế đất quanh co, long hổ hoàn bão, núi
không cao mà to, sông dẫn nước hữu tình,
cảnh vật phong quang đẹp đẽ. Công liền truyền cho thiết lập học đường để dạy dân văn tự. Được mấy năm,
nhân dân ai nấy đều kính mộ. Bấy giờ,
Vua Thái Tông hạ lệnh chiếu truyền các huyện, châu, đạo trong thiên hạ, nơi nào có người thông minh,
tài trí lại đức độ hiếu liêm, hiền lương
phương chính, trung thực thì về triều ứng tuyển. Công đi bộ lên trường ứng thí. Văn trận tài cao đệ
danh chiếm Khôi Nguyên, tiếp theo thi Đình
ông trúng Thám Hoa (khoa thi năm Canh Tuất - niên hiệu Thiệu Bình Đại Bảo thứ 3 (1442). Công thường dạy
cho dân làng kỹ nghệ chạm trổ. Vua
Thái Tông thấy Công văn võ toàn tài, lại là bậc kẻ sĩ có tay nghề giỏi, liền tuyển Công làm “Đô
chỉ huy sứ Đại tướng quân”. Công nhận quan tước và phụng mệnh về quê hương mở tiệc lớn chúc mừng. Công nghĩ đến lời cha mẹ kể khi còn sống, liền trở về
trang Bồng Lai để xem tình cảnh ra sao.
Bấy giờ, phụ lão nhân dân sĩ tử trang Bồng Lai ai nấy đều sợ hãi, liền hành lễ chúc mừng và xin làm gia thần
tôi con. Công bằng lòng, nói với phụ lão
gia thần: “Ta vốn là thần của trang khu, được giáng sinh xuất thế tài năng như vậy.
Nay ta được hiển vinh trở về, thiết lập cung sở, trùng tu miếu điện, lại phát
nhiều kim ngân cứu giúp người nghèo, xây dựng nhà dưỡng lão”. Nhân đó,
phụ lão nhân dân trang Bồng Lai liền tâu với Công rằng: “Nhờ có đức lớn của ngài mà nhân dân mới an nghiệp, nơi đó nay làm học
đường, ngày sau xin làm nơi phụng thờ tế lễ”. Công bằng lòng. Sau đó, Vua Thái Tông vời Công về
kinh, chuyển Công làm “Đông các Đại học sĩ” và cử Công đi
phụng sứ phương Bắc tiến cống để giữ yên thiên hạ. Công lãnh binh sĩ xuống thuyền rồng cùng đồ vật đến thẳng Bắc triều
tiến cống. Sau khi phụng sứ phương Bắc
xong, Công trở về kinh đô. Vua Thái Tông
thấy Công có công lao to lớn với quốc triều, liền ban thưởng hoàng kim 10 hốt, gấm vóc trăm vuông và mở
tiệc lớn chúc mừng. Lúc này, Bắc triều
lại sai sứ mang chiếu thư thăm hỏi các nhà kỹ nghệ nước An Nam phụng hiến để phong Vương cho họ. Vua
Thái Tông nói với Công rằng: “Tướng quân đại tài, văn võ kỹ nghệ tinh xảo
điệu luyện, trấm phiền tướng quân đi sứ kinh Bắc tiến cống lần nữa thì thiên hạ
thanh bình, quốc gia an lạc, đó là phúc lớn cho quốc gia vậy”. Ngay hôm
đó, Công lại lĩnh mệnh phụng sứ Bắc
triều, quần hiền nhân đó có tập thơ rằng:
“Túc tích bình sinh biến Cửu châu,
Kỷ kinh sóc tuyết dữ viêm khu.
Cổ xưng lương sứ vô gia thử,
Tiện thị càn khôn nhất trượng phu”.
(Nghĩa là: Bình sinh ta rời đất Cửa châu,
Bao
phen nắng lửa, tuyết mưa thâu.
Xưa
xưng sứ giỏi đâu thêm vậy,
Sánh
tựa trời đất, nhất trượng phu).
Công
hai lần phụng sứ đi tiến cống Bắc triều, công việc tốt đẹp vẹn toàn. Xa giá thắng
lợi trở về kinh đô. Vua Thái Tông mở tiệc lớn chúc mừng và thưởng thêm cho Công
hoàng kim 30 hốt, cho phép Công trở về hưởng thực ấp ở đạo Hải Dương. Công bái
tạ trở về nhậm sở. Lúc này đang tiết mùa Đông, Công ngồi trong doanh, bỗng
nhiên thấy trời đất nổi cơn giông dữ dội, một dải mây vàng như hình lụa hồng từ
trên trời bay thẳng xuống trong doanh, thấy bóng ngài theo mây bay đi, như xa
giá đón ngài đến đầu trang Hồng Liễu quê cũ thì không thấy đâu nữa. Tức ngài đã
hoá (bấy giờ vào ngày 15 tháng 11). Trong khoảnh khắc, trời lại trong sáng. Sĩ tốt
và nhân dân gia thần ai nấy đều hoảng sợ, bèn làm biểu tâu lên vương triều. Vua
Thái Tông liền sai đình thần về lập miếu để phụng thờ, sai sứ mang sắc phong
nguyên tự Thần hiệu.
-
Nhất phong: “Lương Như Hộc linh thông cảm ứng Đại Vương”.
Tặng
phong: “Tế thế, hộ quốc, hiển hựu, nhân hậu Đại Vương Trung đẳng thần”. Sắc cho phép trang Bông Lai phụng thờ. Kính thay!
Truyền
rằng: Từ đó về sau, đều linh thiêng hiển ứng, nên được nhiều các bậc đế vương
phong thêm mỹ tự, cho phép trang Bồng Lai phụng thờ, sắc phục màu vàng tía đều
cấm khi hành lễ.
Đến
thời Vua Lê Thế Tông, khởi nghĩa dẹp nhà Mạc (1573 - 1599), có công lao to lớn
âm phù giúp Vua lấy được thiên hạ. Vua Thế Tông lại phong thêm: “Nhất
vị linh ứng, anh triết, hiển hựu, trợ thuận Đại vương Trung đẳng thần”.
Sắc chỉ ban cho trang Bồng Lai trùng tu miếu điện để phụng thờ mãi mãi, không
thể nào quên.
Do
có công lao với đất nước, thành hoàng Lương Như Hộc đều được các triều đại
phong kiến ban sắc ghi nhận công lao. Do năm tháng và chiến tranh, hiện nay tại
đình Bồng Lai chỉ còn lưu giữ được 01 đạo sắc phong thời Nguyễn với nội dung
như sau:
Sắc
cho “Vị
thần là thành hoàng nơi này linh thiêng phù giúp”, xưa nay có công giúp
nước, che chở cho dân, linh thiêng hiển ứng, đã được đội ơn ban tặng sắc lưu lại
phụng thờ. Đến nay, kế thừa mệnh lớn, nghĩ đến công lao tôt đẹp của thần, được
tặng thêm: “Vị thần có công giúp đỡ, bảo vệ thời Trung Hưng”. Lại cho phép
xã Bồng Lai, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương phụng thờ thần như trước, thần sẽ
giúp đỡ, bảo vệ dân lành của ta. Kính thay!
Ngày 01 tháng 7 năm Đồng
Khánh thứ 2 (1887).
* Chùa Bồng Lai
Như
nhiều ngôi chùa tại các làng xã khác thuộc đồng bằng Bắc Bộ, chùa Bồng Lai là nơi thờ Phật theo Thiền
phái Đại Thừa, Đại Thừa được ví như
một cỗ xe lớn chở được nhiều người. Phái này chủ trương không câu nệ, cố chấp vào giáo lý, rộng rãi hơn
trong việc thực hiện giáo luật, thu nạp tất
cả những ai muốn quy y giác ngộ, thờ nhiều Phật, kể cả các vị Bồ Tát, Phái Đại Thừa phát triển lên phương Bắc
như: Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên...
nên còn gọi là Bắc Tông.
2. Lễ hội truyền thống
*
Lễ hội chùa Bồng Lai
Cũng
như những ngôi chùa ở miền Bắc, chùa Bồng Lai có đây đủ lễ tiết trong năm.
-
Rằm tháng giêng hàng năm là ngày lễ đầu năm.
-
Ngày 4 tháng 1 giỗ Đức Thánh ông.
-
Mồng 3 tháng 3 giỗ Mẫu.
-
Mồng 8 tháng 4 ngày Phật đản.
-
Ngày 15 tháng 7 ngày lễ Vu Lan.
-
Ngày 22/12 ngày chạp phật.
*
Lễ hội đình Bồng Lai
Lễ
hội truyền thống hàng năm được tổ chức vào ngày mồng 6 đến mồng 10 tháng giêng âm lịch, trọng hội là mồng 10. Đây là lễ kỷ niệm ngày sinh của thành hoàng Lương Như Hộc.
Xin nêu tóm tắt một số nét chính của
lễ hội này:
-
Ngày mùng 5 mở cửa đình, các bô lão và trai tráng trong làng dọn dẹp, chồng kiệu, bao sái đồ thờ, dọn dẹp
đường làng ngõ xóm để phục vụ lễ hội.
-
Ngày 6 tổ chức tế lễ. Lễ vật gồm có: Bánh chưng, bánh gai, bánh trắng, bánh phu thê, thịt lợn.
-
Ngày 7, 8, 9 tổ chức tế lễ và các trò chơi dân gian.
-
Ngày 10 là ngày trọng hội: Thôn Bồng Lai có 4 giáp: Đông, Tây, Nam, Bắc, bô lão, dân làng tập trung
ra đình từ ngay sáng sớm chuẩn bị lễ vật,
để rước từ đình ra xung quanh làng, sau đó rước trở về đình, tổ chức tế lễ. Đoàn rước có bát bửu, bát âm, long
đình, kiệu bát cống đi thành hàng. Chiều
tế giã đám, kết thúc lễ hội.
-
Lễ vật có bánh chưng, bánh gai, bánh trắng, bánh phu thê, thịt lợn. Theo hương ước của làng thì mỗi giáp đều
được chia ruộng công, để đến ngày lễ
hội, các giáp phải có bánh chưng, bánh gai, bánh trắng, bánh phu thê, thịt lợn để lễ Thành hoàng làng. Trong những ngày lễ hội có nhiều trò
chơi dân gian được tổ chức như: Vật,
bắt vịt, đi cầu thùm, đập nồi đất, tối có hát chèo, hát tuồng, hát nhả tơ. Hoạt động lễ hội là sinh hoạt
tín ngưỡng không thể thiếu được của nhân
dân địa phương.
Năm
1945 lễ hội đình Bồng Lai không được tổ chức do đất nước ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Đến năm 1995 đến nay, lễ hội
mới được mở trở lại, thời gian từ
ngày mồng 9 đến ngày mồng 10 tháng giêng âm lịch, hai năm tổ chức rước một lần
vào năm lẻ. Lễ hội đình Bồng Lai đã tiếp thu nhiều yếu tố mới, hoạt động tín ngưỡng phù hợp với cuộc sống hiện
đại.
3. Kiến trúc
* Đình Bồng Lai
Căn
cứ vào kết quả khảo sát, điền dã, nghiên cứu tại di tích, căn cứ vào quy mô kiến trúc, đặc biệt dòng lạc
khoản trên câu đầu ghi rõ: “Hoàng triều Duy Tân nguyên niên quý Đông
trung nguyên đại cát nhật thụ trụ” nghĩa là vào giờ tốt ngày rằm tháng
chạp mùa Đông - Hoàng Triều Duy Tân nguyên
niên (1907) dựng trụ thượng lương. Do vậy, chúng tôi cho rằng: Đình Bồng Lai là công trình tín ngưỡng
có niên đại thời Nguyễn (thế kỷ 19).
Trải qua chiến tranh và mưa nắng xâm thực ngôi đình đã bị xuống cấp ít nhiều nhưng vẫn giữ nguyên được kiến
trúc ban đầu khá nguyên vẹn. Trong
thời kỳ kháng chiến đình là nơi đựng kho thóc của nhà nước và là nơi tổ chức các lớp học bình dân học vụ.
Di
tích có kiến trúc kiểu chữ Nhị (=) gồm 5 gian đại bái và 3 gian hậu cung xây bít đốc. Đại bái và hậu
cung cách nhau một khoảng sân lọng. Từ
ngoài vào, toà đại bái 5 gian lợp ngói mũi. Kích thước nhà 13,2x 6,64 (m), gồm 6 vì kèo, Hai vì kèo
gian trung tâm và hai vì kèo gian bên có kiến trúc kiểu “con chồng giá chiêng”
truyền thống. Hai vì kèo áp tường lại có kiến trúc kiểu “kèo cầu trụ báng”.
Phía trước của mỗi vì kèo là các đầu bẩy hiên, bẩy hiên được luồn qua cột quân,
đỡ xà nách, đồng thời phía ngoài đỡ hoành và tàu ngói. Hệ thống hoành được bố
trí theo lối “thượng tam hạ tứ” chắc chắn. Các chỉ tiết của vì kèo khá đầy đủ
bao gồm cột cái có chu vì 37cm, cột quân có chu vi 30cm. Liên kết giữa các vì
kèo ở các gian là hệ thống xà quân, xà thượng. Các thanh xà đều được soi chỉ, tạo
má chai bào nhẵn. Hệ thống rui, lá mái, tàu, gộp mái chắc chắn. Tại các xà nách,
con thuận chạm lá lật. Chất liệu của di tích chủ yếu là gỗ lim, do vậy toà nhà
đứng vững với thời gian.
Đáng
chú ý là hệ thống bẩy hiên với những bức chạm “Lá hoá long” mềm mại,
tinh tế, ần chứa tài hoa của các nghệ nhân dân gian đương thời.
Phân nề ngoã: Toạ lạc trên mảnh
đất cao ráo, móng, tường xây bằng gạch chỉ, nền lát gạch, mái lợp ngói mũi truyền
thống. Bờ nóc có bức phù điêu lưỡng long chầu nguyệt. Công trình khá chắc chắn.
Vượt
qua khoảng sân lọng là hậu cung 3 gian, có chiều dài 9,2m và chiều rộng 8m, gồm
4 vì kèo liên kết với nhau. Kết cấu của các vì kèo khá đơn giản, kỹ thuật chủ yếu
là bào trơn đóng bén. Điều đặc biệt của toà nhà này là khoảng hiên khá rộng, tại
đây có những bức chạm mang đậm phong cách nghệ thuật như “độc long”, “cúc hoá
long”, “mai hoá long”, “trúc hoá long” “lá hoá long”....Hoành, rui bằng gỗ tứ
thiết, móng tường xây bằng gạch chỉ, mái lợp ngói mũi truyền thống.
*
Bài trí thờ tự:
Như
nhiều di tích khác, bài trí thờ tự đình Bồng Lai theo nguyên tắc chung
cân đối.
Chính
giữa đại bái là ban thờ công đồng, hai bên là bộ bát bửu, tàn lọng.
Tiếp theo là hệ thống nhang án và các đồ tế tự, như: Bát hương, cây nến,
mâm bồng.
Hai
gian bên có hai bức đại tự.
Bức
thứ nhất: “Hiển thánh từ” nghĩa là đền Thánh (linh thiêng) hiện rõ.
Bức
thứ hai: “Vương môn động” nghĩa là động của Ngài là bậc Đại Vương.
Dọc
thân cột cái gian trung tâm treo đôi câu đối:
Lê
triều hộ quốc dân khang thịnh
Giáng
phúc trừ tại cứu thế độ an dân.
Nghĩa
là:
Triều Lê giúp nước, bảo vệ dân khoẻ mạnh,
thịnh vượng
Bậc Thánh giáng xuống đền thiêng từ xưa
tới nay.
Hai
bên cột gian bên treo đôi câu đối:
Thiên
cổ lưu truyền bảo gia môn khang thịnh
Giáng
phúc trừ tai cứu thế độ an dân.
Nghĩa
là:
Ngàn xưa luu truyền (bậc Thánh) bảo vệ mọi
nhà an khang, thịnh vượng.
Giáng phúc, trừ tai ương, cứu đời, phù hộ
giúp dân yên.
Khác
với đại bái, bài trí thờ tự tại hậu cung được thể hiện khá trang nghiêm. Chính giữa là ngai và tượng thờ
thành hoàng Lương Như Hộc (tượng mới
công đức năm 2008). Đối xứng hai bên được bài trí đôi lục bình, cây nến, mâm bồng, bát hương...theo
nguyên tắc cân đối tạo sự trang nghiêm.
* Chùa Bồng Lai
Căn
cứ vào kết quả khảo sát, điền dã, nghiên cứu tại di tích, căn cứ vào
quy mô kiến trúc và ý kiến của các cụ cao niên trong làng thì chùa Bồng
Lai xưa được xây dựng vào thời Nguyễn (TK19). Đây là một di tích lớn gồm nhiều hạng
mục công trình khác nhau, trong đó có 5 gian tiền đường xây đao dĩ, 1 gian
cổ giải, 4 gian hậu cung xây bít đốc, 7 gian nhà tổ, 3 gian nhà tăng
và một gác chuông ở hướng Nam.
Hiện
nay, 7 gian nhà tổ, 3 gian nhà tăng và gác chuông của chùa không còn do chiến
tranh và do phong hoá bởi thời gian. Gác chuông được khôi phục lại vào năm
1994 và được trùng tu năm 2018 trên nền cũ và quay theo hướng Đông bằng nguồn
vốn công đức của nhân dân địa phương và khách thập phương xa, gần.
Kiến
trúc hiện nay của chùa kiểu chữ Đình gồm 3 gian 2 dĩ tiền đường, 1 gian cổ giải và
4 gian cậu cung. Mặt tiền quay về hướng Nam, phía Đông giáp đường,
phía Bắc và phía Tây giáp khu dân cư. Di tích toạ lạc trên một khu đất bằng
phẳng, thoáng rộng và có hướng phát triển tốt.
Năm
gian tiền đường dài 13,9m, rộng 7,5m. Tại đây, 3 gian chính được các nghệ nhân dân
gian kiến tạo 4 vì kèo theo kiểu “giá chiêng” truyền thống, hai vì
kèo ở hai gian dĩ được hạ khoảng và liên kết với vì kèo ở gian chính bằng hệ
thống xà đùi, kẻ góc, các con thuận, chặn mái...khá công phu. Hệ thống giằng
dọc của toà tiền đường là các vì kèo, mỗi vì kèo có 2 cột cái, nối giữa cột cái
và cột quân là hệ thống xã lách và các con thuận, trên đầu hai cột cái
là câu đầu và hệ thống trụ, con thuận, con vành tạo thành kiến trúc kiểu “giá
chiêng”. Cùng với hệ thống xã là hệ thống hoành, với lối ghép “Thượng
tứ, hạ ngũ” được bố trí trên mái hợp lý, nên kết cấu mái chắc chắn và
phẳng. Mái lợp ngói mũi, tường xây gạch chỉ, bờ nóc được đắp nổi đề án “lưỡng
long châu nguyệt”. Hai đầu nhà được gắn lạc long, miệng ngậm bờ nóc,
đuôi cuộn tròn vắt trên hồi đấu. Công trình không bị xuống cấp.
1
gian cổ giải và 4 gian hậu cung dài 9,3m, rộng 7m được nối liền với gian trung
tâm toà tiền đường bằng hai xối tạo cho di tích có kiến trúc kiểu chữ Đình (J).
Vì kèo tại gian cổ giải có kiến trúc kiểu “kèo cầu trụ báng”. Điều đặc biệt,
vì nách của vì kèo này một bên được kiến tạo một bức chạm “lá hóa long”, một bên là
các con thuận tạo cho không gian kiến trúc thêm sống động.
Tiếp
sau gian cổ dải là 4 gian hậu cung, gồm 4 vì kèo. Vì thứ nhất, vì thứ hai và vì
thứ 3 có kiến trúc giống nhau kiểu “kèo cầu trụ báng”. Riêng vì kèo áp
tường lại có kiến trúc kiểu vì ván mê. Tường xây bằng gạch chỉ, mái lợp ngói
mũi. Toàn bộ ngôi chùa còn khá vững chắc.
*
Bài trí thờ tự tại chùa
Do
yêu cầu thờ tự của thiên phái Đại Thừa, chùa Bồng Lai có các lớp tượng thờ từ
trong ra ngoài. Tuy nhiên, bài trí tượng thờ ở đây có sự xáo trộn do nhiều
nguyên nhân khác nhau.
Tại
tiền đường là 2 pho Hộ Pháp là thần Khuyến Thiện (bên trái), Thần
Trừng Ác (bên phải). Hộ pháp tức là bảo hộ cho Phật pháp. Cả hai Hộ Pháp
đều đi hia đen, tư thế đứng bảo vệ đối xứng nhau, đầu đội mũ trụ. Hộ Pháp
là những vị Thần hộ trì canh gác cửa Phật và bảo vệ Phật pháp.
Bên
cạnh hai pho Hộ Pháp còn có 02 pho tượng Đức Thánh Hiền (bên trái) và tượng Đức
Ông (bên phải). Tượng Đức Thánh Hiền ngồi trên bệ vuông giật cấp, mặc
áo cà sa, đầu đội mũ thất phật. Đức Thánh Hiền còn được gọi là Thánh Tăng.
Theo sách Tượng khí thì bên phái Tiểu Thừa thờ một vị đại đệ tử của Phật
là Kiều Trần Như hoặc Đại Ca Diếp. Theo sách, Thánh Tăng được thờ ở
Tăng đường song ở đây được thờ tại Tiền Đường), Tượng Đức Ông mặc triều
phục, đầu đội mũ cánh chuồn chéo (võ quan), tư thế ngồi trên bệ vuông
giật cấp. Chân đi hia đen mũi cong có hoa cúc mãn khai. Theo Kinh Phật, Đức
Ông chính là Cấp Cô Độc người giàu tâm đức đã hiến ruộng đất cho Thích
Ca để hành đạo, sau này trở thành thân Thổ địa, được Phật giao cho cai quản tài sản
của chùa. Ở Việt Nam có phong tục những đứa trẻ nào khó nuôi thường “bán
khoán” cho chùa, tức là bán cho Đức Ông. Ngài nhận làm cha đỡ đầu.
Ngoài
ra, ở hồi trái tiền đường là bộ tượng tam toà thánh Mẫu. Tiếp theo là hệ thống tượng
thờ chùa Bồng Lai tập trung tại gian chính điện. Tại đây có 6 lớp tượng
thờ được bài trí như sau:
-
Lớp thứ nhất:
Gồm 03 pho tượng Tam Thế: Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai, chất liệu gỗ. Về mặt
tạo hình khá giống nhau, tư thế ngồi trên toà sen. Tam Thế là tổng hợp hết
thảy chư phật ở đời, tức là chỉ chung cho các cõi Phật trong thời gian,
cho nên để cao, xa bên trong, Kinh Phật cho rằng tương ứng với Tam Thế ở
thời Hiện Tại là Phật Thích Ca, với Quá Khứ là Phật A Di Đà, với Tương
Lai là Phật Di Lặc.
-
Lớp thứ hai:
Toà Cửu Long.
Toà
Cửu Long được tạo hình nghệ thuật thành nhiều lớp tượng thờ khá sinh động. Giữa toà
Cửu Long có tượng Thích Ca Sơ Sinh tạo hình một bé trai (hài nhi) đứng
trên toà sen, 9 con rồng vây bọc chầu vào trên đầu và ba mặt sau lưng ngài,
trên những đám mây có đủ chư Phật, chư thiên, thiên nữ, nhã nhạc, cờ phướn
và bát bộ kim cương.
-
Lớp thứ ba:
Tượng A Di Đà.
A
Di Đà Phật có nghĩa là vô lượng thọ (sống lâu vô cùng), cũng lại
có ý nghĩa vô lượng quang (sáng suốt vô cùng). Theo giáo lý nhà phật
thế giới mà con người đang sống là cõi sa bà, tức là uế thổ, cõi đất
không trong sạch, nơi đây con người phải chịu nhiều khổ ải, phiền não.
Về phía Tây cõi sa bà này, vượt qua hàng vạn, triệu thế giới gọi là
cực lạc, dân gian hay gọi là Tây phương cực lạc, ở đấy Phật A Di Đà
làm giáo chủ, đang thuyết pháp để hoá độ chúng sinh. Tượng ngồi trong
tư thế toạ thiền hay thuyết pháp trên đài sen. Tóc xoáy ốc, đầu để
lộ đỉnh, không đội mũ. Khuôn mặt đôn hậu, mắt nhìn xuống như đang
suy tư.
-
Lớp thứ tư:
Tượng Thích Ca niêm hoa.
Tượng
Thích Ca niêm hoa, diễn tả Thích Ca Mầu Ni đang thuyết pháp, ngài ngồi trên đài
sen. Tượng để lộ viên đỉnh, mặc áo pháp, hở vai bên hữu, tay cầm hoa sen nên
còn được gọi là “Thế tôn niệm hoa”.
-
Lớp thứ năm:
Tượng Quan Âm Chuẩn Đề.
Tượng
Quan Âm Chuẩn Đề tư thế ngồi xếp bằng trên toà sen, đây là ban thờ Đức Phật ở
cõi Tây phương cực lạc chủ việc cứu độ chúng sinh. Tuy cõi cực lạc là cõi Phật
song lại có duyên với cõi Sa Bà nên để gần ta hơn lớp Phật Tam Thế, Quan Âm Chuẩn
Đề 12 tay, có khả năng cứu vớt chúng sinh thoát khỏi cõi Sa Bà.
-
Lớp thứ sáu:
Gồm 1 bộ 3 pho (từ trái sang phải) gồm: Bắc Đầu, Ngọc Hoàng và Nam Tào. Đây là
ba vị thần của đạo giáo, có nguồn gốc từ Trung Quốc du nhập vào Việt Nam khá sớm
đã cùng với Nho giáo, Phật giáo hoà đồng tạo thành ý thức hệ: "Tam giáo đồng
nguyên" thời Lý - Trần (TK11 - 14) tồn tại tới ngày nay tại các chùa. Tượng
Nam Tào chủ về dương, sinh. Tượng Bắc Đẩu chủ về âm, tử. Tượng Ngọc Hoàng là
Vua Trời cai quản toàn bộ cõi Dục Giới.
Để
không gian thờ tự thêm phần thiêng liêng, trang trọng, tại gian tiền đường và
thượng điện được treo 04 bức đại tự và 05 đôi câu đối ca ngợi đạo pháp và đức
Phật. Xin nêu nội dung một bức đại tự và một đôi câu đối. (Nội dung các bức đại
tự và câu đối còn lại, xin xem trong tài liệu Hán nôm).
Đại
tự: “Pháp
Phật Tăng”
Nghĩa
là:
Phật có đạo lý (phép tắc) và thầy tu.
Câu
đối: Càn
khôn lai tế độ
Thánh hiền nguyện giáng lâm
Nghĩa
là:
Phật che chở, bảo vệ rộng khắp trong trời
đất
Bậc Thánh hiền giáng xuống bảo vệ cho thế
gian.
Đình Bồng Lai tôn thờ thành hoàng
làng là Lương Như Hộc - ông tổ của
nghề khắc ván in mộc bắn, có công giúp vua Lê Thái Tông (1434 - 1442) hai lần đi sứ phương Bắc, giữ
yên đất nước. Tiểu sử của ông đã được ghi
trong thần tích, sắc phong, câu đối, đại tự và trong tài liệu lưu trữ tại Viện Thông tin khoa học xã hội. Chùa Bồng
Lai là nơi thờ phật theo thiền phái
Đại thừa. Bảo tồn di tích đình, chùa Bồng Lai góp phần giáo dục truyền thống yêu nước cho cán bộ và
nhân dân, nhất là thế hệ trẻ ngày nay trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đình và chùa Bồng Lai là các công
trình mang phong cách thời Nguyễn và còn lưu giữ được nhiều bức chạm khắc đạt
trình độ nghệ thuật cao, lưu dấu tài
hoa của các nghệ nhân dân gian. Hai khu di tích quy hoạch khá gọn gàng, có cảnh quan đẹp và có hướng phát triển trong tương
lai.
Hiện tại, đình - chùa còn bảo tồn
được một số hiện vật, cổ vật, trong
đó có 1 quyển thần tích bằng chữ Hán, 1 đạo sắc phong thời Đồng Khánh thứ 2 (1887), 1 quả chuông....Đây chính là nguồn tư liệu chính xác phục vụ công tác nghiên cứu
khoa học xã hội và nhân văn.
Đình Bồng Lai được khởi dựng vào thời
Nguyễn. Công trình còn giữ nguyên được kiến trúc ban đầu khá nguyên vẹn. Năm
1998, 2007, bằng sự đóng góp của nhân dân, một số hạng mục đã được tu sửa như
thay hoành, lợp lại ngói, lát nền...làm cho di tích ngày một khang trang, đáp ứng
nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Năm 2014, bằng nguồn vốn xã hội hoá và nguồn vốn
từ ngân sách nhà nước cấp trên, đình Bồng Lai đã tiến hành trùng tu, tôn tạo di
tích theo hướng dẫn và chỉ đạo của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải
Dương. Hiện nay, toàn bộ công trình chắc chắn, không bị xuống cấp.
Chùa Bồng Lai được khởi dựng từ thời
Nguyễn (thế kỷ 19), trải qua mưa nắng xâm thực, di tích không tránh được tình
trạng xuống cấp ít nhiều nhất là nhà thượng điện. Những năm gần đây, nhân dân địa
phương vận động công đức tu bổ, tôn tạo di tích, ngăn chặn xâm thực tự nhiên,
phát hiện kịp thời những điểm xung yếu mối mọt, đảm bảo an ninh trật tự không để
xảy ra tình trạng mất cắp cổ vật hoặc xâm phạm đất đai di tích./.